Em thấy mình như bủn rủn cả người. Anh Fares, người anh vô cùng yêu
quý mà em không được gặp lại từ bốn năm nay! Bám vào tường bằng đôi
bàn tay run rẩy, mẹ em đi loạng choạng đến tận cửa ra vào. Trong sự hăm
hở chung, chúng em cũng theo gót mẹ, trong khi bé Rawdha tìm cách đi
trước bằng cách lách qua chân chúng em. Với em, chưa bao giờ đoạn hành
lang nhỏ bé lại có vẻ dài dằng dặc như thế.
Người thanh niên đang đứng ở cửa có nước da rám nâu vì ánh mặt trời
và đôi má lõm sâu xuống. Anh đã thay đổi biết bao! Cao lớn và mảnh mai,
anh Fares không còn là cậu thiếu niên trong bức ảnh mà em từng nhiều lần
ngắm nghía đến từng chi tiết nhỏ nhất vì sợ sẽ quên đi gương mặt anh. Từ
giờ trở đi em phải ngước mắt rất cao mới có thể quan sát được anh gần hơn.
Ánh mắt anh đã trở nên khắc nghiệt và trên trán anh đã xuất hiện vài đường
màu sẫm như Aba. Bây giờ anh đã là một người đàn ông rồi.
- Fares! Fares! Fares! mẹ em vừa rên rỉ vừa bám lấy chiếc áo dài trắng
của anh để ôm ghì lấy anh.
- Chúng em đã rất nhớ anh đấy, em vừa nói vừa đến lượt mình ôm hôn
anh.
Thẳng đơ người như một đỉnh núi, anh Fares không nói gì. Anh có vẻ
kiệt sức. Ánh mắt anh thật trống rỗng. Gần như là buồn bã. Đâu rồi vẻ hăng
hái vốn rất hợp với anh?
- Anh Fares! Anh Fares! bé Rawdha nhắc đi nhắc lại như một người
máy mà không thực sự hiểu rằng người đàn ông cao lớn này là anh trai của
bé, người đã đi khỏi nhà chúng em khi bé vẫn chỉ là đứa trẻ sơ sinh.
Từ sau cú điện thoại chóng vánh từ Ả rập Xê út, hai năm sau ngày trốn
nhà ra đi, anh đã để chúng em rơi vào tình trạng không hay tin gì về anh.
Cho đến cú điện thoại bất ngờ vào một buổi tối tháng trước. Khi Omma
nhận ra giọng anh ở bên kia đầu dây, mẹ đã hét lên vì vui sướng. Thế là
chúng em tranh nhau điện thoại, người này tiếp sau người khác để được
nghe anh nói. Anh dường như ở xa, rất xa, nhưng điều đó lại sưởi ấm trái
tim em vì biết anh còn sống.