phí hiện tại với một lượng mà sẽ bù đắp được chi phí bảo quản trữ lượng hàng làm ra ngày nay cho đến thời
giddme có giá dự kiến cao hơn.
Trước đây chúng ta nói là chính lãi suất tiền tệ mới quy định giới hạn đối với mức sản lượng, nhưng giờ đây
rõ ràng là lời phát biểu đó không hoàn toàn đúng. Lẽ ra chúng ta nên nói là lãi suất của tài sản mà giảm chậm nhất
khi trữ lượng tài sản nói chung tăng lên - chính lãi suất đó cuối cùng sẽ loại trừ việc sản xuất có lợi đối với mọi
loại tài sản khác, trừ trường hợp vừa nói trên là có mối quan hệ đặc biệt giữa chi phí sản xuất hiện tại và chi phí
sản xuất trong tương lai. Khi sản lượng tăng, các lãi suất riêng giảm xuống tới mức mà tại đó các tài sản lần lượt
giảm xuống thấp hơn mức sản xuất có lợi, giảm cho đến khi cuối cùng một hoặc nhiều nhiều lãi suất riêng dừng
lại ở mức cao hơn mức hiệu quả biên của bất kỳ tài sản nào.
Nếu chúng ta quan niệm tiền tệ là bản vị giá trị, thì rõ ràng là không nhất thiết lãi suất tiền tệ mới gây ra
chuyện rắc rối như trên. Chúng ta không thể thoát khỏi khó khăn (như một số người đã tưởng) chỉ bằng cách ra
pháp lệnh rằng lúa mỳ hoặc nhà cửa sẽ là tiêu chuẩn giá trị thay cho vàng hoặc đồng bảng Anh. Vì bây giờ dường
như là những khó khăn ấy sẽ kéo dài nếu vẫn tiếp tục tồn tại một tài sản bất kỳ mà lãi suất riêng của nó khó có thể
giảm xuống khi sản lượng tăng lên. Ví dụ, có thể là vàng sẽ tiếp tục đóng vai trò này trong một nước đã chuyển
sang bản vị tiền giấy không chuyển đổi.
III
Vì vậy, khi gán một ý nghĩa đặc biệt cho lãi suất tiền tệ, chúng ta đã ngầm giả thiết rằng loại tiền, mà chúng
ta quen biết, có một số tính chất đặc biệt làm phát sinh lãi suất riêng của nó được tính bằng chính loại tiền đó với
danh nghĩa bản vị mà khi tổng hợp tài sản nói chung tăng lên thì khả năng sụt giảm của bản vị này ít hơn so với lãi
suất riêng của bất kỳ tài sản nào khác được tính bằng đơn vị đo lường của bản thân chúng. Giả thiết này có xác
đáng không? Tôi nghĩ, nếu suy ngẫm thì thấy rằng những đặc điểm sau đây, mà thường đặc trưng cho việc tiền tệ
như chúng ta biết, là có khả năng xác nhận giả thiết này. Ở mức độ mà bản vị giá trị được xác lập có những đặc
điểm này, câu khẳng định ngắn gọn rằng lãi suất tiền tệ chính lãi suất có ý nghĩa nhất, sẽ là đúng đắn.
(i)
Đặc điểm thứ nhất dẫn đến kết luận trên là ở chỗ tiền tệ, trong dài hạn cũng như trong ngắn hạn, đều có
sự co giãn sản xuất bằng không hoặc nói chung là rất nhỏ, chừng nào người ta còn quan tâm đến sản xuất của
xí nghiệp tư doanh biệt lập với giới chức tiền tệ, trong bối cảnh này độ co giãn sản xuất
có nghĩa là mức
phản ứng của lượng lao động được sử dụng để làm ra sản phẩm đối với mức tăng trưởng lao động cần thiết để
làm ra một đơn vị sản phẩm. Nói cách khác không thể dễ dàng làm ra tiền. Các nghiệp chủ không thể tự ý sử
dụng lao động để làm ra tiền với số lượng ngày càng tăng khi giá tiền tăng lên so với đơn vị tiền công. Trong
trường hợp đồng tiền không chuyển đổi được quản lý thì điều kiện này được thoả mãn hoàn toàn. Nhưng
trong trường hợp đồng tiền có bản vị vàng thì tình hình cũng gần như vậy, với nghĩa là tỷ lệ tối đa thêm vào
lượng lao động mà có thể được sử dụng như vậy là rất nhỏ, trên thực tế chỉ trừ các nước mà ở đó khai thác
vàng là ngành công nghiệp chính.
Còn trong trường hợp tài sản có độ co giãn sản xuất, thì sở dĩ chúng ta giả định lãi suất riêng của chúng
giảm xuống là vì chúng ta giả định tổng hợp tài sản tăng lên do có mức sản lượng cao hơn. Song, trong trường
hợp tiền trước mắt, chúng ta chưa xét đến tác động của việc giảm đơn vị tiền công hoặc của của việc giới chức
tiền tệ cố ý tăng cung ứng tiền, - thì lượng cung là cố định. Như vậy, đặc điểm không thể dùng lao động để dễ
dàng làm ra tiền tạo ngay cho chúng ta cơ sở giả định đúng đắn rằng lãi suất riêng của tiền tệ sẽ giảm một
cách tương đối không dễ dàng. Trong khi đó, nếu có thể trồng tiền như hoa màu hoặc chế tạo tiền như ô tô thì
có thể tránh được hoặc giảm nhẹ các cuộc suy thoái, vì nếu giá của các tài sản khác có su hướng giảm so với
tiền như chúng ta thấy tình hình này xảy ra tại các nước khai thác vàng, mặc dầu đối với thế giới nói chung
mức chuyển hướng tối đa như thế này hầu như không đáng kể.
(ii)
Song rõ ràng, điều kiện trên được thoả mãn không những bằng tiền mà bằng tất cả các nhân tố sinh lợi
thuần tuý, mà việc tạo ra các nhân tố này là hoàn toàn không co giãn: do đó cần có điều kiện thứ hai để phân
biệt tiền với các yếu tố sinh lợi khác.