LÝ THUYẾT TỔNG QUÁT VỀ VIỆC LÀM, LÃI SUẤT VÀ TIỀN TỆ - Trang 223

Điểm khác biệt thứ hai của tiền là nó có độ co giãn thay thế bằng hoặc gần bằng không. Điều đó có nghĩa

là khi giá trị trao đổi của tiền tăng lên thì không có xu hướng thay thế tiền bằng một nhân tố nào đó, không kể
trường hợp, có lẽ ở mức độ không đáng kể, khi tiền hàng hoá cũng được sử dụng trong công nghiệp hoặc các
ngành mỹ nghệ. Điều này suy ra từ đặc điểm của tiền là - độ thoả dụng của nó chỉ phát sinh từ giá trị trao đổi
của nó, cho nên cả hai đều tăng và giảm một cách đồng điệu, với hiệu quả là khi giá trị trao đổi của tiền tăng
thì không có động cơ hoặc xu hướng thay thế tiền bằng một nhân tố khác nào đó, như trong trường hợp các
nhân tố sinh lợi.

Như vậy, không những không thể sử dụng thêm lao động để tạo ra tiền khi giá tiền tính bằng lao động

tăng lên, nhưng tiền là một cái thùng không đáy đối với sức mua khi nhu cầu về tiền tăng, vì đối với tiền
không có mức giá trị mà tại đó nhu cầu chuyển hướng sang các thứ khác, như trong trường hợp các nhân tố
sinh lợi khác.

Hạn chế duy nhất đối với việc này nẩy sinh khi giá trị của tiền tăng lên và gây ra tình trạng vô định đối

với khả năng duy trì mức tăng này trong tương lại. Trong trường hợp đó a

1

và a

2

tăng, điều này tương đương

với việc lãi suất hàng hoá tính bằng tiền tăng lên và do đó khuyến khích tạo ra các tài sản khác.

(iii)Ba là, chúng ta phải xét liệu các kết luận trên có bị bác bỏ bởi một thực tế là, mặc dầu không thể tăng khối

lượng tiền tệ bằng cách chuyển lao động sang việc tạo ra tiền, nhưng nếu giả thiết lượng cung thực tế về tiền
là hoàn toàn không đổi, thì sẽ không đúng. Cụ thể là, việc giảm đơn vị tiền công và rút tiền mặt ra khỏi các
cách sử dụng khác để thoả mãn động cơ chuyển hoán thêm vào đó, khi giá trị tiền tệ giảm, trữ lượng tiền sẽ
chiếm một tỷ lệ lớn hơn trong tổng số của cải của cộng đồng.

Không thể tranh cãi trên cơ sở lý luận thuần tuý rằng tác động trở lại này có thể làm cho lãi suất tiền tệ giảm

một cách thoả đáng. Song có một số lý do mà kết hợp lại có sức thuyết phục lớn khi giải thích tại sao trong một
nền kinh tế thuộc loại mà chúng ta quen biết, rất có khả năng là lãi suất tiền tệ thường tỏ ra khó có thể giảm sút
một cách thoả đáng.

(a) Trước hết, chúng ta phải tính đến tác động trở lại của việc giảm đơn vị tiền công đối với hiệu quả biên tính

bằng tiền của các tài sản khác vì chính mức chênh lệch giữa các hiệu quả biên ấy với lãi suất tiền tệ là điều mà
chúng ta quan tâm đến. Nếu tác động của việc đơn vị tiền công giảm sút là nhằm tạo ra một kỳ vọng rằng về
sau nó lại tăng, thì kết quả sẽ hoàn toàn thuận lợi. Nếu, ngược lại, tác động đó là nhằm tạo ra một kỳ vọng rằng
đơn vị tiền công sẽ giảm tiếp nữa, tác động trở lại đối với hiệu quả biên của vốn có thể bù lại việc giảm lãi
suất

(3)

.

(b) Việc thù lao tính bằng tiền có chiều hướng vẫn giữ nguyên (vì tiền lương danh nghĩa ổn định hơn tiền lương

thực tế) thường hạn chế khả năng suy giảm của đơn vị thù lao tính bằng tiền. Hơn nữa, nếu không phải như
vậy, thì tình hình có thể xấu hơn, chứ không phải tốt hơn, vì nếu tiền lương danh nghĩa giảm sút dễ dàng thì
điều này thường có thể tạo nên một kỳ vọng về sự giảm tiếp nữa với những tác động bất lợi đối với hiệu quả
biên của vốn. Hơn nữa, nếu khoản thù lao được tính bằng đơn vị của một mặt hàng khác nào đó (giả sử là lúa
mỳ) thì chúng có khả năng là khoản thù lao sẽ giữ nguyên. Đó là do có các đặc điểm khác của tiền, đặc biệt là
các đặc điểm làm cho tiền dễ chuyển hoán, mà khoản thù lao, khi được tính bằng tiền, thường vẫn giữ nguyên.

(4)

(c) Ba là, chúng ta tiến tới phần được coi là cơ bản nhất về phương diện này, tức là các đặc điểm của tiền đáp ứng

ưu tiên chuyển hoán. Vì vậy, trong một số trường hợp như thường xảy ra, các đặc điểm này làm cho lãi suất
không nhạy bén, nhất là dưới một mức

(5)

nào đó, ngay cả đối với một lượng gia tăng đáng kể về khối lượng

tiền tệ tương xứng với các dạng của cải khác. Nói cách khác, khi qua một giới hạn nào đó, khi khối lượng tiền
tệ tăng thì lợi tức tiền tệ do khả năng dễ chuyển hoán của nó hẳn không giảm tới mức như lợi tức của các loại
tài sản giảm khi khối lượng của chúng tăng một cách tương đương.

Về mặt này, chi phí bảo quản thấp (hoặc không đáng kể) đối với tiền đóng một vai trò quan trọng. Vì nếu các

chi phí bảo quản là đáng kể thì chúng sẽ loại trừ tác dụng của những dự kiến về giá trị tiền tệ trong tương lai. Việc
dân chúng sẵn sàng tăng trữ lượng tiền của họ khi có một tác nhân kích thích tương đối nhỏ là do có những cái lợi

Liên Kết Chia Sẽ

** Đây là liên kết chia sẻ bới cộng đồng người dùng, chúng tôi không chịu trách nhiệm gì về nội dung của các thông tin này. Nếu có liên kết nào không phù hợp xin hãy báo cho admin.