LÝ THUYẾT TỔNG QUÁT VỀ VIỆC LÀM, LÃI SUẤT VÀ TIỀN TỆ - Trang 224

(thực sự hay là giả định) của tính chuyển hoán không bị khử trừ dưới dạng chi phí bảo quản tăng nhanh cùng với
thời gian. Trong trường hợp một mặt hàng khác với tiền thì một trữ lượng nhỏ cũng có thể đảm bảo một phần tiện
lợi cho người sử dụng mặt hàng này. Mà cho dù một trữ lượng lớn hơn có thể là hấp dẫn vì đó là dự trữ của cái có
giá trị ổn định, thì cái hấp dẫn này sẽ bị khử trừ bởi chi phí bảo quản dưới dạng kho tàng, hư hao, v.v.. Do đó, sau
khi đạt tới một giới hạn nhất định thì nhất thiết sẽ bị lỗ nếu giữ một trữ lượng lớn hơn.

Song, trong trường hợp tiền tệ thì, như chúng ta đã thấy, sự việc không phải như vậy, đó là một loạt nguyên

nhân, cụ thể là những nguyên nhân mà, theo đánh giá của dân chúng, khiến cho tiền trở thành “dễ chuyển hoán”
đến cao độ. Do vậy, khi các nhà cải cách tìm phương thức cứu chữa bằng cách đặt ra chi phí quản lý giả tạo thông
qua việc yêu cầu đồng tiền pháp định phải được định kỳ đóng dấu với chi phí quy định để duy trì danh nghĩa tiền
tệ của nó, thì họ đã đi đúng đường, và giá trị thực tế trong các đề nghị của họ đáng được xét đến.

Do đó, ý nghĩa của lãi suất tiền tệ bắt nguồn từ tổ hợp các đặc tính là thông qua tác động của động cơ chuyển

hoán lãi suất này có thể là tương đối không nhạy bén đối với sự thay đổi về tỷ lệ của khối lượng tiền tệ so với các
dạng của cải khác được tính bằng tiền, và tiền có (hoặc có thể có) cả độ co giãn sản xuất lẫn độ co giãn thay thế
bằng không (hoặc không đáng kể). Điều kiện thứ nhất có thể là lượng cầu có thể phần lớn được hướng vào tiền,
điều kiện thứ hai có nghĩa là khi việc này xảy ra, thì không thể sử dụng lao động để tạo thêm tiền, và điều kiện thứ
ba có nghĩa là không thể nào cải thiện được tình hình thông qua một nhân tố nào đó nếu nhân tố đó tương đối rẻ có
khả năng đảm đương chức năng của đồng tiền một cách hoàn hảo như nhau. Cách cải thiện duy nhất - ngoài cũng
thay đổi về hiệu quả biên của vốn - có thể làm được (chừng nào thiên hướng ưu tiên chuyển hoán chưa thay đổi) là
tăng khối lượng tiền tệ hoặc (về thực chất cũng vậy thôi) nâng giá trị của tiền làm cho một khối lượng tiền nhất
định có khả năng cung cấp dịch vụ tiền tệ nhiều hơn.

Do vậy, lãi suất tiền tệ tăng sẽ kìm hãm đầu ra của tất cả các sản phẩm mà quá trình sản xuất chúng là co

giãn, mà lại không thể kích thích đầu ra của tiền tệ (vì, theo giả thiết, việc tạo ra tiền là hoàn toàn không co giãn).
Lãi suất tiền tệ về quy định mức độ cho tất cả các lãi suất hàng hoá khác nên kìm hãm đầu tư vào sản xuất các mặt
hàng khác này mà không thể khuyến khích đầu tư để sản xuất tiền tệ vì, theo giả thiết, không thể sản xuất tiền
được. Hơn nữa, nhờ độ co giãn của lượng cầu về tiền mặt tính theo trái khoán, một thay đổi nhỏ về điều kiện chi
phối lượng cầu này không thể làm cho lãi suất tiền tệ thay đổi nhiều, mà các tác nhân tự nhiên (ngoài sự tác động
chính thức) cũng không thể (do tính không co giãn của việc sản xuất tiền tệ) làm giảm lãi suất tiền tệ bằng cách tấc
động đến mặt cung. Trong trường hợp một mặt hàng thông thường, thì tính không co giãn của lượng cầu về trữ
lượng dễ chuyển hoán của mặt hàng đó sẽ làm cho những thay đổi nhỏ về mặt cầu cũng có thể làm tăng hoặc giảm
lãi suất của mặt hàng đó một cách đột ngột, còn độ co giãn của lượng cung về mặt hàng này cũng thường không
cho pháp có một khoản tiền lớn cho việc giao hàng ngay so với giao hàng có kỳ hạn. Như vậy, đối với mặt hàng
khác được để mặc tự chúng, thì các tác nhân tự nhiên, tức là các tác nhân thông thường của thị trường, thường làm
giảm lãi suất của các mặt hàng này cho đến khi việc xuất hiện tình trạng có đầy đủ việc làm tạo điều kiện cho hàng
hoá nói chung có tính không co giãn về cung mà chúng ta đã giả định như một đặc trưng bình thường của tiền tệ.
Như vậy, khi không có tiền và không có bất kỳ thứ hàng nào khác có những thuộc tính giả định của tiền tệ (tất
nhiên, chúng ta cũng phải giả thiết như vậy), thì lãi suất chỉ đạt tới mức cân bằng khi có đầy đủ việc làm.

Nói cách khác, nạn thất nghiệp lan rộng vì con người có tham vọng lớn - con người không thể làm việc khi

đối tượng ham muốn (là tiền) là một cái gì đó không thể làm ra được và nhu cầu về cái đó không thể dễ dàng từ bỏ
được. Không còn cách nào cứu chữa ngoài việc thuyết phục dân chúng là phải đặt Ngân hàng trung ương dưới sự
kiểm soát của nhà nước.

Điều thú vị là cần lưu ý rằng dặc tính mà theo giả thiết cổ truyền đã làm cho vàng trở thành đặc biệt thích hợp

với danh nghĩa là bản vị giá trị, tức là tính không co giãn về cung của vàng, hoá ra lại chính là đặc tính gây ra mọi
rắc rối.

Có thể phát biểu kết luận của chúng ta (nếu giả thiết thiên hướng tiêu dùng là cho trước) dưới dạng tổng quát

nhất như sau. Mức đầu tư không thể tăng thêm nữa khi lãi suất lớn nhất trong số các lãi suất riêng trong tất cả các

Liên Kết Chia Sẽ

** Đây là liên kết chia sẻ bới cộng đồng người dùng, chúng tôi không chịu trách nhiệm gì về nội dung của các thông tin này. Nếu có liên kết nào không phù hợp xin hãy báo cho admin.