giảm dần của trang thiết bị hiện có khi sản lượng do thiết bị đó tạo ra tăng lên. Như vậy, sự bình đẳng tối đa
có thể thực hiện được sẽ được duy trì giữa giới lao động và các nhân tố có thù lao được ấn định bằng tiền
trong hợp đồng, đặc biệt là tầng lớp thực lợi và những người có tiền lương cố định trong biên chế lâu dàu của
một hãng, một cơ quan hoặc của nhà nước. Nếu các tầng lớp đông dân phải có thù lao cố định bằng tiền trong
mọi trường hợp, thì công bằng xã hội và lợi ích xã hội được đảm bảo tốt nhất nếu thù lao bằng tiền của tất cả
các cá nhân là tương đối ít biến động. Khi xét các nhóm đông dân có thu nhập bằng tiền lương mềm dẻo hơn
chính sách tiền tệ linh hoạt chỉ có thể là người không công minh, nếu người ấy không chỉ ra được những ưu
điểm của chính sách tiền lương mà không có trong chính sách tiền tệ.
(iii)Phương pháp tăng khối lượng tiền tệ tính bằng đơn vị tiền lương bằng cách giảm đơn vị tiền lương sẽ làm tăng
gánh nặng nợ nần một cách tương ứng, trong khi đó phương pháp cũng đem lại kết quả tương tự, nhưng bằng
cách tăng khối lượng tiền tệ mà vẫn giữ đơn vị tiền lương không đổi, thì tác dụng ngược lại. Xét về gánh nặng
quá mức của các loại nợ nần, thì chỉ có người thiếu kinh nghiệm mới chuộng phương pháp thứ nhất hơn.
(iv) Nếu lãi suất giảm dần là do mức lương giảm dần gây ra thì, vì những lý do nói trên, lực cản đối với hiệu quả
biên của vốn sẽ tăng gấp đôi, và lý do trì hoãn đầu tư và do đó trì hoãn quá trình phục hồi sẽ có tác dụng mạnh
gấp đôi.
III
Do đó suy ra rằng nếu giới lao động phải thích nghi với điều kiện việc làm giảm dần bằng cách cung cấp dịch
vụ của mình với mức tiền lương danh nghĩa giảm dần, thì theo thông lệ, việc này không có tác dụng làm giảm tiền
lương thực tế mà còn có thể tác dụng làm tăng tiền lương thực tế do ảnh hưởng bất lợi của việc này đối với khối
lượng sản xuất. Kết quả chủ yếu của chính sách này là gây ra sự bất ổn định nghiệm trọng về giá cả, có lẽ bất ổn
định dữ dội đến nỗi làm cho các tính toán về kinh doanh trở thành vô ích trong một xã hội kinh tế hoạt động theo
kiểu xã hội mà chúng ta đang sống. Nếu giả thiết chính sách tiền lương linh hoạt là một phụ tố riêng và cần thiết
của một hệ thống trong đó nói chung là được mặc sức làm ăn, thì giả thiết đó trái với sự thật. Chỉ trong một xã hội
chuyên quyền cao độ, trong đó những biến đổi lớn, toàn diện và đột ngột có thể được thực hiện bằng sắc lệnh, thì
mới có thể tiến hành thành công một chính sách tiền lương linh hoạt. Chính sách này có thể áp dụng ở Italia, Đức
hoặc Nga, nhưng không phải Pháp, Mỹ hoặc Anh.
Nếu cố công dùng luật pháp, như ở Australia, để cố định tiền lương thực tế, thì sẽ có một mức sử dụng nhân
công nào đó tương ứng với mức tiền lương thực tế đó, và trong một hệ thống đóng mức sử dụng nhân công thực tế
đó sẽ giao động mạnh giữa mức đó và tình trạng hoàn toàn không có việc làm tuỳ thuộc ở chỗ mức đầu tư cao hơn
hoặc thấp hơn mức đầu tư tương ứng với mức sử dụng nhân công đó, còn giá cả sẽ nằm ở điểm cân bằng không
bên khi đầu tư ở mức tới hạn, sẽ giảm ngay xuống không mỗi khi đầu tư thấp hơn mức tới hạn. Phải tìm yếu tố ổn
định, nếu có, trong các nhân tố chi phối khối lượng tiền tệ được xác định sao cho bao giờ cũng có một mức tiền
lương danh nghĩa nào đó, mà tại đó khối lượng tiền tệ sẽ đủ để xác lập mối quan hệ giữa lãi suất và hiệu quả biên
của vốn, như vậy sẽ duy trì được lượng đầu tư ở mức tới hạn. Trong trường hợp này khối lượng việc làm sẽ cố
định (ở mức tương ứng với tiền lương thực tế pháp định). Còn tiền lương danh nghĩa và giá cả sẽ biến động với
tốc độ nhanh trong mức độ cần thiết để duy trì lượng đầu tư ở mức thích đáng. Trong trường hợp cụ thể của
Australia, tất nhiên, lối thoát đã được tìm ra một phần ở sự bất lực không tránh khỏi của pháp luật trong việc đạt
tới mục đích của mình, và một phần ở chỗ Australia không phải là một hệ thống đóng, cho nên chính mức tiền
lương danh nghĩa là một yếu tố quyết định mức đầu tư nước ngoài và do đó cả tổng mức đầu tư, còn tỷ lệ xuất
nhập khẩu thì ảnh hưởng đáng kể đến tiền lương thực tế.
Dưới anh sáng của những nhận định trên, bây giờ tôi cho rằng việc duy trì một mức tổng quát ổn định cho
tiền lương danh nghĩa, khi đã cân nhắc những vấn đề có liên quan, là chính sách khôn ngoan nhất đối với một hệ
thống đóng, và kết luận tương tự cũng đúng đối với một hệ thống mở, miễn là có thể đảm bảo thế cân bằng với thế
giới bên ngoài bằng cách thay đổi tỷ giá. Sẽ có lợi nếu tiền lương trong cách ngành riêng biệt có mức độ linh hoạt
nào đó để đẩy nhanh quá trình thuyên chuyển lao động từ các ngành tương đối bị sa sút sang các ngành tương đối