đang lớn mạnh. Nhưng mức tiền lương danh nghĩa nói chung nên được duy trì càng ổn định càng tốt, ít ra là trong
ngắn hạn.
Chính sách này sẽ đảm bảo một mức độ ổn định đáng kể về mức giá, ít nhất cũng ổn định hơn so với khi áp
dụng chính sách tiền lương linh hoạt. Ngoài giá “chỉ đạo” và giá độc quyền, mức giá chỉ sẽ biến động về khối
lượng việc làm tác động đến giá thành biên, còn trong dài hạn mức giá sẽ chỉ biến động tuỳ theo những biến động
về chi phí sản xuất do có phương pháp sản xuất mới và thiết bị mới hoặc có thêm thiết bị.
Tuy nhiên, đúng là nếu có những biến động lớn về việc làm, thì chúng sẽ kéo theo những biến động đáng kể
về mức giá. Nhưng những biến động này, như tôi đã nói ở trên, sẽ nhỏ hơn so với khi có chính sách tiền lương linh
hoạt.
Như vậy, với một chính sách tiền lương cứng rắn, sự ổn định của giá cả trong ngắn hạn sẽ gắn liền với việc
tránh được những biến động về việc làm. Mặt khác, trong dài hạn, chúng ta vẫn còn cách lựa chọn giữa chính sách
để cho giá cả giảm từ từ theo đà tiến bộ của kỹ thuật và thiết bị mà vẫn giữ tiền lương ổn định hoặc chính sách để
cho tiền lương tăng từ từ, mà vẫn giữ giá cả ổn định. Nhìn chung, ưu tiên của tôi dành cho phương án thứ hai, bởi
vì với dự kiến tiền lương trong tương lai thì việc việc duy trì mức việc làm thực tế trong một phạm vi nhất định
của mức toàn dụng nhân công sẽ dễ hơn so với khi dự kiến tiền lương giảm trong tương lai, và cũng vì lợi ích xã
hội do gánh năng nợ nần giảm dần, vì việc điều tiết lao động từ các ngành suy thoái sang các ngành đang tăng
trưởng sẽ dễ dàng hơn, và vì sự kích thích tâm lý thường thấy do có xu hướng ôn hoà muốn tăng tiền lương danh
nghĩa. Nhưng ở đây không đề cập đến điểm chủ yếu có tính nguyên tác, vì nó vượt ra ngoài phạm vi những vấn đề
mà tôi đang trình bày.
Trong phụ lục của chương này “Lý thuyết về thất nghiệp” của giáo sư Pigou sẽ được phê phán chi tiết.