với tư cách là những kim chỉ nam cho những chính sách cụ thể, là có lý. Bởi vì trong tình hình như vậy không có
cách gì khác hơn. Nếu không tăng được đầu tư thì rõ ràng nâng cao mức tiêu dùng là cách duy nhất đảm bảo mức
sử dụng nhân công cao hơn.
Trên thực tế điều duy nhất tôi khác với quan điểm của các trường phái này là ở chỗ họ hơi quá nhấn mạnh
đến vấn đề tiêu dùng tăng trong khi đầu tư tăng vẫn còn có thể đem lại nhiều lợi ích cho xã hội. Tuy nhiên, về mặt
lý thuyết họ có thể bị chỉ trích vì không chú ý đến thực tế là có hai cách để tăng sản lượng. Ngay cả khi chúng ta
muốn quyết định rằng tốt hơn là giảm độ tăng vốn và tập trung nỗ lực tăng tiêu dùng, chúng ta cũng phải quyết
định điều này một cách sáng suốt sau khi xem xét kỹ cả khả năng khác nữa. Bản thân tôi có ấn tượng mạnh về
những lợi ích xã hội lớn lao của việc tăng khối lượng vốn, cho đến khi vốn không còn khan hiếm nữa. Nhưng đây
chỉ là một ý kiến có tính chất thực tế chứ không phải là điều bắt buộc về mặt lý thuyết.
Hơn nữa, tôi sẵn sàng thừa nhận rằng đường lối khôn ngoan nhất là thực hiện đồng thời cả hai cách. Trong
khi nhằm vào một mức đầu tư được xã hội kiểm soát để giảm dần hiệu quả biên của vốn, đồng thời tôi ủng hộ mọi
chính sách tăng khuynh hướng tiêu dùng. Bởi vì với khuynh hướng tiêu dùng hiện nay, không thể nào duy trì tình
trạng toàn dụng nhân công, dù ta thực hiện biện pháp gì chăng nữa đối với đầu tư với mức tiêu dùng hiện đang tồn
tại. Vẫn còn có khả năng để thực hiện đồng thời cả hai chính sách - đẩy mạnh đầu tư đồng thời đẩy mạnh tiêu
dùng không chỉ tới mức khuynh hướng tiêu dùng hiện nay tương ứng với đầu tư tăng, mà còn lên tới mức cao hơn
nữa.
Lấy số làm tròn cho dễ hiểu, nếu sản lượng trung bình hiện nay thấp hơn 15% so với mức có thể đạt được nếu
còn có mức toàn dụng nhân công và nếu 10% của sản lượng này là đầu tư ròng phải tăng 50% để có đầy đủ việc
làm với khuynh hướng tiêu dùng như hiện nay, sao cho với việc làm đầy đủ sản lượng sẽ tăng từ 100 lên 115, tiêu
dùng từ 90 lên 100, và đầu tư ròng từ 10 lên 15 - thì lúc đó ta có thể tính đến việc điều chỉnh khuynh hướng tiêu
dùng để đảm bảo khi có việc làm đầy đủ tiêu dùng sẽ tăng từ 90 lên 103 và đầu tư ròng từ 10 lên 12.
V
Một trường phái tư duy khác nữa tìm giải trình cho chu kỳ kinh tế bằng cách giảm cung lao động tìm việc
chứ không phải bằng cách tăng tiêu dùng hoặc đầu tư, nghĩa là bằng cách phân phối lại khối lượng công việc hoặc
sản lượng.
Theo tôi đây có vẻ như một chính sách chưa được suy tính kỹ lưỡng - và cảm giác đó thể hiện so với kế
hoạch tăng tiêu dùng. Đến một lúc nào đó mọi cá nhân sẽ cân nhắc những lợi ích của việc tăng thêm thời gian thư
nhàn so với tăng thu nhập hơn là có thêm thời gian thư nhàn. Và tôi không thấy có lý do nào buộc những người
thích nhiều thu nhập hơn phải hưởng thêm thời gian nhàn rỗi.
VI
Nghe có vẻ kỳ quặc khi có một trường phái tư duy tìm giải pháp cho chu kỳ kinh tế bằng cách ngăn chặn thời
kỳ thịnh vượng ngay từ những giai đoạn đầu bằng việc nâng cao lãi suất. Cách biện hộ duy nhất cho chính sách
này là do ông D. H. Robertson đưa ra khi cho rằng tình trạng toàn dụng nhân công là một lý tưởng không thể đạt
được, và điều tốt nhất chúng ta có thể hy vọng là một mức sử dụng nhân công ổn định hơn nhiều so với hiện nay,
và lấy trung bình có thể cao hơn một chút.
Nếu chúng ta loại trừ những thay đổi lớn trong chính sách tác động đến quản lý đầu tư, hoặc khuynh hướng
tiêu dùng và giả định rằng nói chung tình hình như hiện nay vẫn tiếp tục thì theo tôi có thể lập luận rằng có thể có
một tình trạng dự kiến trung bình thuận lợi hơn một chính sách ngân hàng luôn luôn bóp chết từ trong trứng nước
một thời kỳ thịnh vượng mới phôi thai bằng cách tăng lãi suất đủ cao để làm nản lòng ngay cả những người lạc
quan một cách sai lệch nhất. Sự thất vọng về những dự kiến, đặc trưng của thời kỳ suy thoái có thể dẫn đến nhiều
tổn thất và lãng phí đến nỗi trung bình của đầu tư hữu ích có thể cao hơn nếu áp dụng một biện pháp ngăn chặn.
Khó có thể nói được luận điểm này có đúng theo những giả định của nó hay không; đây là một vấn đề đánh giá