Trên thực tế tình hình lại trái ngược hẳn. Chính là chính sách chủ trương lãi suất tự chủ, không bị những thiên
kiến quốc tế ngăn trở, và chủ trương một chương trình đầu tư quốc gia nhằm đạt được mức sử dụng nhân lực tối
ưu trong nước vừa có lợi cho bản thân chúng ta vừa có lợi cho các nước láng giềng. Và nếu tất cả các nước đồng
thời cùng theo đuổi những chính sách này thì có thể phục hồi sự lành mạnh và sức mạnh của nền kinh tế trên phạm
vi quốc tế, xét theo mức sử dụng nhân công trong nước hay khối lượng mậu dịch quốc tế cũng vậy
.
IV
Những người theo thuyết trọng thương nhận thức được sự tồn tại của vấn đê đó nhưng không có khả năng mở
rộng sự phân tích của họ tới chỗ có thể giải quyết được vấn đề. Nhưng phải mở rộng sự phân tích của họ tới chỗ
có thể giải quyết được vấn đề. Nhưng phái cổ điển đã làm ngơ đối với vấn đề này vì họ đã đưa vào những tiền đề
của họ những điều kiện bao hàm sự không tồn tại của vấn đề này, kết quả là đã tạo nên một sự tách biệt giữa
những kết luận của lý thuyết kinh tế và những kết luận của lẽ phải thông thường. Thành công phi thường của lý
thuyết cổ điển là đã khắc phục được những niềm tin cũ con người trời sinh, mặc dù đó là một lý thuyết sai lầm.
Như giáo sư Heckscher đã viết:
Nếu quan điểm cơ bản đối với tiền tệ và nguyên liệu làm ra tiền tệ đã không thay đổi từ thời Thập Tự
Chinh đến thế kỷ 18, thì suy ra rằng chúng ta đang phải đối phó với những khái niệm có cơ sở vững
chắc. Có lẽ cũng những khái niệm này đã tồn tại dai dẳng sau 500 năm ấy, kể cả thời kỳ đó, mặc dù
không gần đến mức độ như khái niệm “lo sợ về hàng hoá”. Ngoại thời kỳ tự do kinh doanh, không có
thời đại nào không bị những khái niệm này chi phối. Chỉ có sự kiên trì vô song của chính sách tự do
kinh doanh mới có thể khắc phục trong một thời gian những niềm tin của “con người trời sinh” về điểm
này.
Cần phải có niềm tin tuyệt đối vào thuyết tự do kinh doanh để có thể xoá bỏ khái niệm “lo sợ về hàng
hoá”… là thái độ tự nhiên nhất của “con người trời sinh” trong một nền kinh tế tiền tệ. Thuyết tự do mậu
dịch phủ nhận sự tồn tại những yếu tố có vẻ hiển nhiên và chắc chắn sẽ không được những thường dân
ngoài đường phố tin tưởng, ngay sau khi những người đã bị ràng buộc chặt vào hệ tư tưởng tự do kinh
doanh không còn tin vào thuyết này nữa.
Tôi còn nhớ sự phẫn nộ pha lẫn với sự lúng túng của Bonar Lơ trước những nhà kinh tế học, vì họ đã phủ
nhận những điều hiển nhiên. Ông ta đã rất khó khăn để tìm ra một cách giải thích. Người ta liên tưởng đến sự
tương tự giữa ảnh hưởng của phasit cổ điển trong lĩnh vực lý thuyết kinh tế và ảnh hưởng của một số tôn giáo. Bởi
vì sử dụng uy lực của một tư tưởng để xua đuổi sự thật hiển nhiên sẽ có kết quả hơn là gieo rắc những điều xa xôi
khó hiểu vào quan niệm thông thường của con người.
V
Còn một vấn đề liên quan nhưng lại khác biệt là qua nhiều thế kỷ, thực ra là nhiều nghìn năm, giới thông thạo
chuyên môn đã thừa nhận một học thuyết mà những nhà kinh tế học cổ điển bác bỏ như ý kiến trẻ con, nhưng học
thuyết này lại đáng được phục hồi và coi trọng. Tôi muốn nói đến học thuyết cho rằng lãi suất tự điều chỉnh ở mức
phù hợp nhất với lợi ích xã hội, mà luôn luôn có xu hướng tăng lên quá cao, vì thế một chính quyền khôn ngoan
phải quan tâm ngăn chặn lãi suất tăng lên bằng luật lệ và tập quán và thậm chí bằng việc kêu gọi sự lên án của đạo
lý.
Những điều luật chống cho vay nặng lãi nằm trong những biện pháp kinh tế cổ xưa nhất mà chúng ta có biết.
Trong thế giới cổ đại và trung cổ, sự phá hoại yếu tố kích thích đầu tư do ưa chuộng tiền mặt thái quá là tai hoạ
lớn, là trở ngại chủ yếu đối với sự tăng trưởng của cải và tất nhiên là như vậy vì một số rủi ro và mạo hiểm trong
đời sống kinh tế làm giảm sút hiệu quả biên của vốn, trong khi một số rủi ro và mạo hiểm khác lại làm tăng sự ưa
chuộng tiền mặt. Vì vậy, trong một thế giới mà không ai có thể coi là an toàn thì hầu như không thể tránh được