Vượt qua những trở ngại về chính trị, văn hóa và pháp lý (ví dụ,
tiếp cận những thị trường mới với chế độ bảo hộ các doanh nghiệp
sở tại nghiêm ngặt trong đó công ty ngoài không thể mua lại hoàn
toàn hoặc giữ vị trí kiểm soát đối với doanh nghiệp sở tại, chẳng
hạn như tại Trung Quốc hoặc Ấn Độ).
Các liên minh chiến lược có thể có một số mục tiêu khá khác nhau bởi
vì chúng linh động hơn hình thức liên doanh. Cũng chính vì tính linh
động này mà chúng có nhiều hình thức đa dạng hơn: địa lý (toàn cầu,
khu vực, quốc gia), lĩnh vực/thị trường (chỉ có một vài sản phẩm, hoặc
có nhiều sản phẩm đa dạng), và chức năng (sản xuất, bán hàng, nghiên
cứu và phát triển, hậu cần). Bởi các liên minh thường có ít cam kết với
nhau về tài chính, nên các công ty có thể theo đuổi những mục tiêu
khác không được đề cập tới khi thành lập liên minh. Ngoài ra, các đối
tác vẫn giữ được sự độc lập về mặt chiến lược của mình.
Các công ty nên thận trọng khi lựa chọn liên minh chiến lược hoặc đối
tác liên doanh, bởi thông thường, chúng chỉ đại diện cho một chiến
lược ngắn hoặc trung hạn. Kết quả chung cuộc của hình thức này là gì?
Có tới 80% các liên doanh kết thúc bằng việc liên doanh được bán lại
cho một trong hai bên đối tác.
Do đó, trong bất kỳ một liên minh chiến lược hay liên doanh nào, mỗi
công ty phải xem xét những yếu tố thành công quan trọng của giao
dịch, chẳng hạn như các đối tác liệu có thể bổ sung cho nhau về mặt
năng lực và vị trí trên thị trường hay không, mức độ chồng chéo của
các hoạt động trên thị trường là như thế nào (tốt nhất là mức độ này nên
được giảm thiểu tối đa bởi những sự chồng chéo thường đưa tới nhiều
bất đồng không thể giải quyết được), liệu giao dịch có được thực hiện
dựa trên một sự cân bằng về sức mạnh doanh nghiệp và lợi ích của chủ
sở hữu doanh nghiệp hay không, mức độ tự quản so với công ty mẹ là
như thế nào (tuy nhiên, liệu những công ty mẹ đó vẫn còn có quyền
lãnh đạo và hỗ trợ mạnh mẽ cho công ty con hay không?), khả năng