xây dựng lòng tin và sự tự tin, đồng thời chấp nhận rằng sẽ có một sự
khác biệt chung giữa hai công ty với các công ty mẹ.
Các yếu tố rủi ro cũng có nhiều: ganh đua và không tin tưởng lẫn nhau;
thay đổi chiến lược cộng tác và các ưu tiên; khả năng liên minh bị khai
thác và lợi dụng nếu một công ty giữ đối tác của mình làm “con tin”
trong liên doanh; công ty mẹ sẽ trở nên phụ thuộc quá nhiều vào các
đối tác, và một trong các đối tác đó trở thành mục tiêu tiếp quản hay tạo
ra một thay đổi lớn trong quản lý và chiến lược, từ đó bác bỏ yêu cầu
cần có một liên doanh.
Giữ lại công ty và các khoản đầu tư thiểu số cũng có một số lợi thế
tương tự như liên doanh và đối tác chiến lược. Điểm giống nhau giữa
hai hình thức là chúng đều giúp tránh được những thách thức thường
gặp khi sáp nhập với một công ty khác. Trong các trường hợp này, công
ty mẹ sở hữu một lượng cổ phần vừa đủ trong Bên Bán để giữ quyển
kiểm soát (lượng cổ phần sở hữu có thể dao động từ 10 – 51%). Thông
thường, những giao dịch này không tốn kém nhiều; do Bên Mua không
phải mua 51% hay 100% công ty mục tiêu, nên không nhất thiết phải
trả một lượng lãi cố định cho các cổ phần, cho nên các công ty có thể
tách ra nếu ban lãnh đạo phát hiện thấy có những trục trặc về chống độc
quyền hoặc nếu một bên đối tác muốn kết thúc mối quan hệ, và Bên
Mua có thể giữ quyền kiểm soát mà không phải trải qua một quá trình
lâu dài và tốn kém để xin sự chấp thuận của các cổ đông của Bên Bán.
Tuy nhiên, hình thức này cũng có một số nhược điểm, chẳng hạn như
có thể một công ty khác mua lại lượng cổ phiếu tương tự của Bên Bán
và luật pháp ở một số nơi lại có những chính sách không ưu đãi về thuế
để hạn chế hình thức sở hữu này (thường thường hình thức sở hữu này
liên quan tới cổ tức).
Không làm gì cả: Với tỷ lệ thất bại cao của các cuộc M&A, thì biện
pháp “không làm gì cả” là một lựa chọn tốt trong phần lớn các tình
huống M&A trong thập kỷ 1980 và 1990. Đối với nhiều công ty, nhu
cầu sáp nhập/mua lại mang tính chất chiến lược hay tài chính không