kiếng còn hẳn hoi những mảnh kiếng dày, bàn gỗ và nhiều vật còn xài tốt
chán, cả một cái ti vi cũng còn coi được “Quơ cúp” rần trời. Mỗi sáng, mấy
ông già ngồi trên ghế “phô tơi” êm như ru, cạnh quán cà phê của Hà nhâm
nhi cà phê nói chuyện tào lao, ta bà thế giới.
Vào tiết tháng bảy cũng cô hồn, dưới gốc cây, hàng chục ông địa sứt tay
gãy gọng, tha hồ hút thuốc lá ba số, ăn bánh tây. Không biết xài được ở cõi
âm ty địa ngục hay không, nhưng trong cái miếu nhỏ phong trần sương gió
của mấy chục ông địa bị con người bỏ rơi, tiền đô Âm phủ đầy nhóc nhách.
Cơn gió từ dưới sông thổi lên mát rượi, tạo thành cơn sốt nhỏ cuốn tròn
theo bụi mù... hàng tỷ đô la toàn tiền một trăm mới “cáo chỉ”, rải dài suốt
con đường bên thì giàu, bên thì nghèo, ném tiền xuống sông. Tiền chìm nổi
theo dòng nước, vướng trên bãi sình đen thui... Nhà nào cũng đốt một đống
lửa lớn. Ngọn lửa nhảy múa điên cuồng, cầu cúng Hà Bá trên sông, hối lộ
Diêm Vương, bọn đầu trâu mặt ngựa, cầu mong được ông ta và cấp dưới
đối xử tốt với phạm nhân là bà con cha mẹ, cô dì cậu mợ nơi âm trì địa
ngục. Đám con nít tha mấy ông địa xơ xác, ẵm mấy ổng đi chơi. Con gái thì
giăng võng dưới gốc cây, hát ầu ơ ví dầu cho mấy ổng ngủ như chơi búp bê,
rồi bỏ bụi bỏ bờ.
Giờ tôi kể về Hà. Xóm không chỉ có Hà mà còn nhiều tay anh chị hoàn
lương, nhiều người xăm mình coi thấy ớn, nhưng lại hiền, mấy mụ tào kê
mặt xanh nanh đỏ cũng hiền bớt. Nhưng đâu phải ai cũng hoàn lương thiệt.
Cái bản tánh làm biếng, khoái ăn nhậu, cờ bạc, không chịu đụng móng tay
cũng còn manh nha. Gái điếm nửa hoàn lương nửa ăn sương trong xóm
cũng còn kha khá.
Hà đã có chồng và sống hạnh phúc. Mối lương duyên này cũng lạ.
Không biết Hà lượm được ở đâu anh chàng “phế liệu” sứt môi, ít nói
chuyện, chăm chỉ giúp vợ bưng cà phê, rửa ly chén, nấu cơm. Dù mừng cho
Hà, nhưng tôi vẫn ganh tị với anh chàng tốt số này. Vì sao không phải là tôi,
dù sao bây giờ tôi cũng tương đối đàng hoàng, không còn là thằng ma cà