thường, đến vào lúc khuya khoắt hoặc sáng sớm. Mới đây, bà có vẻ nản chí
khi tôi không thể nói chuyện - vì đứa bé hoặc vì giờ giấc của bà. Tôi thậm
chí còn bắt đầu tránh nghe điện thoại khi màn hình hiển thị cuộc gọi báo
"Không có mặt". Khi chúng tôi đi nghỉ hè một tuần, có đến ba mươi bảy cú
gác máy trên hộp thoại, mười sáu trong số đó diễn ra liên tiếp nhau. Tôi
biết chắc người gọi kiên trì đó là ai.
Tôi bắt đầu hoài nghi việc bà Nhu lúc nào đó sẽ trao cho tôi những hồi
ức của bà, hoặc, sau khi đọc bản tóm lược mà bà hãnh diện về nó quá đến
nỗi thấy rằng những hồi ức ấy đáng được đọc. Tôi bắt đầu thấy mệt mỏi với
trò chơi mèo vờn chuột. Vì thế tôi thách thức bà.
"Tôi không chắc bài giảng đó có ích thế nào cho hồi ký của bà", tôi nói.
"Mọi người muốn biết những gì đã thực sự xảy ra. Với bà. Chứ không phải
những diễn giải tôn giáo về mọi chuyện".
Tôi nghe rõ bà đang nén một hơi thở. Những tiếng xì dài khinh miệt
trong giọng bà thổi đầy hai tai tôi.
"Người Việt Nam biết sự thực đó. Bất kỳ ai xứng đáng đều biết sự thực.
Quá tệ cho những người khác. Ai mà để ý đến tất cả các bạn chứ".
Tôi đã khởi động đúng cái cơ chế tự vệ từng ngăn cách bà với thế giới ở
Sài Gòn. Khi bà Nhu là Đệ nhất Phu nhân, thì luôn có "các nhà ngoại giao"
hoặc "những người Cộng sản" tìm cách hạ uy tín bà. Chồng bà nói rằng
"các thế lực ngoại bang" chống lại họ, "có thể... vì chúng tôi là Công giáo".
Tôi không tìm cách chống lại bà Nhu vì lý do này hay lý do khác. Ý định
của tôi là giúp bà. Tôi muốn có những hồi ức hầu giúp cho mọi người hiểu
và cảm thông với bà. Nhưng tôi dám cãi lại bà, và vì tội lỗi của tôi, bà ta
trừng phạt tôi bằng sự im lặng lạnh lùng kéo dài.
Bà Nhu đột ngột ngừng liên lạc với tôi. Gần một năm trước khi bà gọi
lại cho tôi.