đẹp của Hoàng. Bà có những người hầu, bao gồm một đầu bếp, một người
làm vườn, và một vú em cho đứa bé, để chăm lo công việc nội trợ thay bà.
Thời gian rảnh rỗi, bà Nhu chơi đàn tranh, một nhạc khí tao nhã tương tự
như đàn luýt vậy. Bà cũng tận hưởng thú vui được chở đi quanh thành phố
bằng chiếc xích lô mà bà đã mang đến Huế bằng tàu lửa sau ngày cưới. Bà
khoe khoang rằng những tiện nghi miền Bắc đáng thèm muốn đến độ mọi
người hay dừng lại và nhìn đăm đăm khi hàng ngày bà đi qua dọc hai bên
bờ sông An Cựu đến ăn tối với mẹ chồng. Nhưng bà không bao giờ dám
chắc liệu cái nhìn chòng chọc đó là vì ngưỡng mộ hay vì một ác ý nào đó.
Giờ đây tất cả những sự xa hoa đó đã qua rồi.
Bây giờ thì bà, đang đứng trong mưa, cái chết rập rình tứ phía. Đó là
một khung cảnh nhiều màu sắc biến ảo khốc liệt. Nếu bà trụ lại trên đường
để băng qua cầu, bà tự hỏi, ai là người sẽ đuổi theo bà? Những người bắt
giữ bà hay bất kỳ kẻ nào đó đang bắn vào họ? Bà nghi ngờ việc họ có đủ
gan dạ, hay ngu ngốc để mạo hiểm không. Bà Nhu cảm thấy tự do. Bà đã
mệt mỏi với việc bám víu vào những kỳ vọng vô nghĩa. Đôi vai bà thật sự
nhức nhối vì tất cả những bước đi lom khom để tới gần hơn cái chỗ mà bà
nghĩ mình phải tới. Bà đứng thẳng dậy và nhìn vào làn sương mù phía
trước.
Chuyện gì sẽ đến tiếp theo bà không biết, nhưng bà sẽ nhìn trực diện
vào nó, và bà sẽ mở ra con đường cho mình. Bà Nhu tin rằng trong khoảnh
khắc đó, giữa cơn mưa, vây quanh bởi cảnh tàn phá điêu linh nhưng kỳ lạ
thay không động chạm gì đến bà, bà bắt đầu hiểu ra nhiều điều. Bà sẽ
không giẫm chân vào rác rưởi và mục nát; bà sẽ giữ vững vị trí của mình
trên mặt đất cao.
Bà Nhu vén vạt áo choàng lên. Nó đủ dài để che phủ đầu đứa bé, làm
thành một tấm chắn bảo vệ khỏi màn mưa đang rơi nặng hạt và lạnh giá. Lệ
Thủy nghĩ đó là một cuộc chơi trốn tìm và ló mặt ra ngoài, thích thú cười
rúc rích. Khi bà Nhu cố che lại vạt áo, đứa bé chỉ càng cười nhiều hơn nữa.