của bà Nhu, hoàng đế Bảo Đại, có một cung điện ở Đà Lạt, giống như của
quan toàn quyền Pháp.
Đà Lạt vẫn nổi danh về sự thư nhàn và xa hoa; giờ đây nó là điểm đến
trăng mật cho những cặp vợ chồng Việt mới cưới. Đà Lạt gợi tôi nhớ đến
Thác Niagara với hơi ít ánh đèn nê-ông và thật nhiều quán karaoke. Những
trái tim hồng và hoa hồng đỏ in trên giấy nến được dán khắp nơi - cả trong
những câu khẩu hiệu đảng phái in trên băng rôn vàng chóe treo khắp các
ngả đường chính. Những ngọn đèn Noël thắp sáng quanh năm lung linh
trên những cành cây. Những chiếc thuyền đạp nước hình thiên nga cho thuê
dọc bờ hồ. Chúng khuấy tung mặt hồ nhân tạo phẳng lặng giữa trung tâm
thành phố, làm cho nước ngầu đục và sóng sánh. Nổi danh với ngàn hoa,
cảm giác thành phố này giống như một gian hàng Valentine tại cửa hàng
CVS vào giữa tháng Hai. Sự vội vã quy hoạch và quản lý ngành công
nghiệp du lịch lãng mạn đầy lợi nhuận này của nhà nước đã giáng đòn nặng
nề vào vẻ đẹp tự nhiên của Đà Lạt.
Khi ông bà Nhu đến vào mùa xuân năm 1947, Đà Lạt đã không còn
giống như trong kỷ ức thời trẻ của bà Nhu. Những lùm rừng nhiệt đới đã
chiếm chỗ những trảng cỏ lớn của thành phố. Cuộc suy thoái toàn thế giới
lan đến Việt Nam vào đầu những năm 1930 đã cắt xén đáng kể ngân sách
du lịch. Đến thời điểm chiến cuộc nổ ra ở Âu châu năm 1939, Đà Lạt đã bị
bỏ mặc không ai ngó ngàng tới. Những sân tennis xác xơ và phủ đầy cỏ dại.
Những sòng bạc ngừng hoạt động. Những hộp đêm và rạp xi nê bị đóng
cửa, và những lối đi dọc bờ hồ vắng lặng đìu hiu. Trong suốt chiến tranh,
người Nhật đã bố ráp và giam cầm bất kỳ ai cố ở lại. Khách sạn Palace
không một bóng du khách - cầu thang gác hoành tráng ngày nào đã đổ sập,
và không có ai ở đó để sửa sang. Lợn lòi và mèo rừng xâm lấn vào ranh
giới thành phố.
Ồng bà Nhu ở trong một ngôi nhà mượn tại số 10 đường Hoa Hồng (rue
des Roses). Nó thuộc về một bác sĩ bạn của cha bà Nhu, và mặc dù không