không còn thời gian để đi dạo hoặc để cùng làm những việc khác; thay vào
đó, bác Sếu bắt đầu thích kể chuyện. Từ khi Mộc Nhĩ còn bé tí tẹo, bác vẫn
hay kể chuyện những con lừa ngu ngốc hay những chú cọp can đảm. Nhưng
đó là nhiều năm về trước, và Mộc Nhĩ vẫn mong ngóng có dịp được nghe lại
những câu chuyện bịa ngày xưa. Có cả những chuyện dài mới nữa, những
giai thoại về những nhân vật anh hùng nữ cũng như nam của đất nước Triều
Tiên. Những mẩu chuyện đó là một trò giải trí thật cần thiết, bởi vì sau một
hồi nghe giọng của bác Sếu, Mộc Nhĩ cảm thấy thư thái và chìm vào giấc
ngủ không mộng mị.
Vào ngày cuối cùng, ông thợ Min bảo Mộc Nhĩ ở nhà cả buổi chiều để quét
dọn sân xưởng. Nó sẽ quay trở lại lò nung sau khi mặt trời lặn.
Những chiếc bình sẽ được dỡ ra khỏi lò lúc màn đêm đã trùm kín ngôi làng
gốm nho nhỏ.
Vầng trăng khuyết một nửa sáng mờ mờ đã lên tới đỉnh đầu vào lúc Mộc Nhĩ
quét sạch tro trên lối vào lò nung. Tay cầm cái đèn dầu, nó đứng sang một
bên để ông thợ Min bò vào lò. Ông dùng một cái kẹp gỗ đặc biệt gắp ra từng
chiếc bình vẫn còn nóng, và cẩn thận đặt chúng vào chiếc xe đẩy đã được
Mộc Nhĩ trải sẵn một cái nệm rơm. Ánh trăng không đủ sáng để Mộc Nhĩ
nhìn thấy thật rõ ràng, khi chiếc bình cuối cùng ra khỏi lò thì Mộc Nhĩ bò trở
vào lò để lấy cái đèn.
Dưới ánh đèn dầu chập chờn khi mờ khi tỏ thật khó mà kiểm tra kỹ những
chiếc bình. Họa tiết khảm dát phẳng lì dưới ánh đèn dầu lừa mị. Chỉ thấy
ông thợ Min thở dài và lắc đầu, phải đợi tới lúc trời sáng mới biết được kết
quả.
Thầy trò Mộc Nhĩ cùng nhau chèn thêm rơm vào giữa những chiếc bình. Sau
đó, ông Min giơ đèn lên soi đường trong khi Mộc Nhĩ cẩn thận đẩy chiếc xe
về nhà. Một đêm thật yên tĩnh, ngoại trừ tiếng ếch nhái ộp ộp bên bờ sông,
và thoang thoảng tiếng kêu như than vãn của một con chim đi ăn đêm.