“Đêm nay sao con về trễ vậy, anh bạn nhỏ?”, bác Sếu nói và soi đèn lên khi
Mộc Nhĩ trượt xuống bờ đê.
“Con phải dỡ lò”, Mộc Nhĩ đáp. “Con xin lỗi, bác phải chờ cơm lâu quá.”
Bác Sếu phẩy chiếc nạng như thể phủi đi lời xin lỗi. “Dạo này ta ăn quá
nhiều rồi. Ta càng ngày càng béo phị và lười biếng mất rồi”, bác đùa.
Mộc Nhĩ mệt tưởng chết đi được. Nhưng nó căng thẳng đến nỗi không thể
nằm xuống ngủ.
Nó ngồi dậy nhìn người bạn lớn tuổi của mình ăn tôi. Ngọn đèn le lói thắp
sáng lên một chút khoảng không gian nho nhỏ dưới gầm cầu và bờ đê. Mộc
Nhĩ bất giác nhận ra ý nghĩa của việc nhìn thấy rõ ràng những đồ vật vốn
luôn hiện hữu ở đó. Giống như trông thấy con nai bằng mắt, hoặc cảm nhận
đất sét với những ngón tay...
Vài cái nồi, mấy cái bát được xếp lên một cái kệ nhỏ bằng những phiến đá,
vài đôi đũa, một cái thìa và con dao của bác Sếu xếp thành hàng ngay ngắn.
Cái chiếu của Mộc Nhĩ cuộn lại và xếp ở một góc. Hai cái rổ do bác Sếu
đan, một cái đựng nấm dại; còn cái kia đựng dăm ba món đồ lặt vặt dùng
vào lúc cần thiết - mấy mảnh vải vụn, sợi dây bện, hòn đá lửa. Tất thảy đều
quá quen thuộc với Mộc Nhĩ. Bác Sếu đã sống bao nhiêu năm dưới chân cầu,
đối với bác những vật dụng này giờ đây có lẽ gần như vô hình.
Mộc Nhĩ buột miệng nói trước khi kịp suy nghĩ. “Bác Sếu à, hồi đó khi bác
bị mất nhà cửa và gia đình, sao bác không lên chùa?”
Những người không có nơi nào để về bao giờ cũng tìm đến nương nhờ cửa
Phật. Sư sãi trên chùa đón nhận họ, cho họ cái để ăn, việc để làm. Cuối cùng,
nhiều người trong số họ đã xuống tóc đi tu. Đó chắc hẳn là con đường mặc