- Đúng ra anh mới là người tôi muốn nhắn nhủ. Đừng công bố gì hết, tôi
đồng ý rằng một vụ như thế này có thể mang lại cho anh giải Pulitzer trên
chiếc khay bạc, nhưng hậu quả cũng sẽ rất tàn khốc. Tôi kêu gọi lòng ái
quốc trong anh.
- Lòng ái quốc của tôi ư? Andrew cười khẩy. Ông có biết trong mấy ngày
qua, bao nhiêu người đã chết vì cái thứ chết tiệt mà ông gọi là lòng ái quốc
không?
- Tính cả tôi à? Knopf đáp lại bằng giọng mỉa mai. Họ chết cho Tổ quốc
của họ, danh sách buồn những tổn hại liên đới mà tôi là kẻ khóa đuôi. Nếu
anh tiết lộ những gì tôi sắp cho anh biết, chính đất nước của chúng ta sẽ
phải chịu trách nhiệm dưới con mắt của cả thế giới này. Sẽ không thể kiểm
soát được cơn cuồng nộ của các dân tộc, các đại sứ quán của nước ta sẽ bị
đốt trụi, chúng ta sẽ bị phỉ nhổ. Thậm chí, trong lòng nước Mỹ này thôi,
người dân cũng sẽ chia rẽ. Đất nước này sẽ chìm đắm trong cơn cuồng ám
về an ninh và sẽ co cụm lại. Đừng nhường bước trước cám dỗ của vinh
quan, hãy nghĩ tới những hậu quả mà các tiết lộ của anh kéo theo và bây giờ
thì hãy nghe tôi nói. Trong những năm 1950, từ khi ấy nước Mỹ đã là nhà
sản xuất dầu mỏ lớn nhất thế giới và là nước đảm bảo sự ổn định của giá
dầu. Hồi ấy, một thùng dầu giá một đô la. Năm 1956, khi các nguồn cung từ
Trung Đông bị gián đoạn vì cuộc khủng hoảng kênh đào Suez, chúng ta đã
có thể đáp ứng được nhu cầu của các nước châu Âu, tránh được cảnh thiếu
hụt năng trầm trọng. Nhưng năm 1959, tổng thống Eisenhower, bị tác động
bởi các nhóm lợi ích là các công ty dầu mỏ của Mỹ, những người sợ rằng
nguồn dầu Trung Đông giá rẻ sẽ khiến họ sạt nghiệp, đã áp dụng biện pháp
bảo hộ. Những người được hưởng lợi từ chính sách này sẽ thúc đẩy ngành
sản xuất dầu mỏ của Mỹ, những người đối lập thì thấy ngược lại, chính sách
này sẽ dẫn đến sự cạn kiệt nguồn dầu mỏ.Và đó chính là điều đã xảy ra.
Ngay từ năm 1960, số thùng dầu khai thác trên lãnh thổ Mỹ đã bắt đầu
giảm. 70% trữ lượng dầu của nước ta cạn kiệt trong mười năm. Chúng ta