- Tục ngữ, Cổ ngữ, Gia ngôn (1897, 95tr.), B.I.
- Câu hát góp * (1904, bản in lần thứ 3, 32tr. Ca dao), B.I.
- Ca trù thể cách (1907, 39tr. Quấc âm thi tập. Rút trong các xấp văn
chương), B.I.
- Thơ mẹ dạy con (1907, 11tr. Bổn cũ dọn lại, phụ thêm), B.I.
PHIÊN ÂM :
- Trần Sanh diễn ca * (1905, bản in lần thứ 2, 61tr. Bổn cũ dọn lại), B.I.
- Chiêu Quân cống Hồ (1906, 40tr. Bổn cũ dọn lại), B.I.
- Thoại-Khanh Châu-Tuấn truyện (1906, in lần thứ 2, 28tr., Bổn cũ dọn lại),
B.I.
- Bạch Viên, Tôn Các truyện. Phụ « Chinh phụ ngâm » (1906, in lần thứ 5,
36tr. Bổn cũ dọn lại), B.I.
- Văn Doãn diễn ca * (1906, in lần thứ 3, 100tr. Bổn cũ thứ nhứt. Thứ nhì
sửa lại xuôi câu, xuôi vần), B.I.
- Tống Tử Vưu truyện * (1907, in lần thứ 4, 33tr. Bổn cũ dọn lại), B.I.
- Maximes et proverbes * (1882, 35tr.), B.I.
Có phải chăng đây là bản Pháp văn của một phần quyển « Tục ngữ, Cổ
ngữ, Gia ngôn » ?
Theo VŨ NGỌC PHAN, Bộ « Việt-Pháp tự điển » của PAULUS CỦA
là một bộ tự điển mà gần đây cả người Bắc lẫn người Nam vẫn còn dùng »
. Chúng tôi ngờ rằng có sự nhầm lẫn, vì H.T.C. có bộ « Đại-Nam quấc âm
tự vị », còn « Việt-Pháp tự điển » là của TRƯƠNG VĨNH KÝ mà V.N.P. có
nhắc lại ở mấy trang sau.
Ông PHẠM THẾ NGŨ có dẫn « Quan âm diễn ca » theo Georges
CORDIER (đã dẫn sai cuốn « Gia lễ quan chế ») nhưng chúng tôi không
tìm thấy trong B.I.