đại này với một thời đại khác, có sự mâu thuẫn ở chính ngay một tác giả và
giữa các tác giả với nhau.
C. TRONG VĂN HỌC
Sự phân kỳ trong văn học sử cũng không thoát khỏi tình trạng bất nhứt
chung nói trên. Có người làm văn học sử phân kỳ mà không dùng đến
những chữ cận đại, hiện đại, cận kim, hiện kim. Trường hợp này không đặt
thành vấn đề. Ngược lại, cũng có người dùng đến mà nội dung sai biệt khá
xa từ tác giả này đến tác giả khác. Đó không chỉ là một vấn đề danh từ nhỏ
nhặt, mà chính là một vấn đề quan niệm, vấn đề nhận định. Trong lúc danh
từ chưa có một nội dung thống nhứt, tưởng nhà làm văn học sử cũng cần
bày tỏ những lý do khiến mình lựa chọn năm này hay năm khác để làm
mốc cắm cho một thời đại như ông TRƯƠNG BỬU LÂM đã làm trong địa
hạt lịch sử.
Cùng một thời gian 1862-1945 mà ông THANH-LÃNG gọi là cận đại
, ông PHẠM THẾ NGŨ gọi là hiện đại
. ĐỐi với ông DƯƠNG
QUẢNG HÀM
, thời kỳ cận kim là thế kỷ XIX. Sau đó, ông xét về văn
học sử nước ta về thế kỷ XX mà không gọi thời kỳ hiện kim, nhưng mặc
nhiên tác giả để cho ta hiểu như vậy. Và thật sự, khi đi vào chi tiết, ông đã
hiểu như vậy. Trong phần thứ ba, chương thứ sáu, ông « xét về mấy thi sĩ
hiện đại » (tr.413). Chương thứ bảy đề cập « Các văn gia hiện đại » (tr.432).
Hai ông NGUYỄN TƯỜNG PHƯỢNG và BÙI HỮU SỦNG
không
dùng chữ cận đại mà mệnh danh thời gian 1910-1945 là hiện đại. Ông
NGHIÊM TOẢN có một sơ xuất nhỏ khi ông viết : « Khảo sát văn học
bằng quốc ngữ hay văn học cận đại (nửa trên thế kỷ XX) là một việc rất
khó vì (…) sự phát triển ấy dựa vào những điều kiện vô cùng phức tạp và
hiện đương diễn ra ngay trước mắt chúng ta. »
. Cái hiện đương diễn ra
không thể thuộc về cận đại mà phải là hiện đại. Ông NGUYỄN SỸ TẾ
cũng đã có nhận xét về điểm này trên tạp chí « Sáng Tạo » (số 22, tháng 7-
1958, tr.4). Ông PHẠM VĂN DIÊU căn cứ theo chánh trị sử, văn hóa sử và