Trong thời kỳ dự bị, ông DƯƠNG QUẢNG HÀM phải đề cập những
tác giả không phải của thế kỷ XX. Đó là các ông TRƯƠNG VĨNH KÝ,
PAULUS CỦA… thuộc nửa sau thế kỷ XIX.
Dựa theo tiêu chuẩn hình thức, truyền miệng và chữ viết, ông
NGHIÊM TOẢN trong V.N.V.H.S.T.Y lần lượt xét qua :
- Văn học bình dân truyền khẩu,
- Văn học bằng chữ Hán hay bác học,
- Văn học bằng chữ nôm (vừa bình dân vừa bác học) mà thời kỳ thứ
ba được kể từ thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX,
- Văn học bằng chữ quốc ngữ được kể từ hồi đầu Pháp thuộc (giữa thế
kỷ XIX) cho đến ngày tác chiến (19-12-1946).
Như vậy là khi xét đến văn học bằng quốc ngữ (mà ông D.Q.H. gọi là
nền quốc văn mới) và bằng chữ nôm, ông N.T. cũng có để một thời gian
trùng hợp : nửa sau thế kỷ XIX.
Ông PHẠM THẾ NGŨ trong V.N.V.H.S.G.Ư.T.B. khi xét đến văn học
hiện đại (1862-1945) vẫn phải dành hậu bán thế kỷ XIX (1862-1907) cho
những nhà văn nôm cuối cùng như Bùi Hữu Nghĩa, Nguyễn Đình Chiểu,
Nguyễn Khuyến, Trần Tế Xương, Phan Bội-Châu, Phan Châu-Trinh…
Hậu bán thế kỷ XIX khi thì được gắn liền vào thế kỷ XIX, khi thì
được cho đi liền với nửa đầu thế kỷ XX, khi thì được gọi là cận đại, khi thì
hiện đại, nửa dơi, nửa chuột.
Trong tình trạng lưỡng khả đó, ra đề luận cho thí sinh mà dùng những
chữ cận đại, hiện đại cũng gần bằng như bày ra trò chơi sắp, ngửa. « Tìm
hiểu sĩ khí của các nhà nho trong văn chương Việt-nam cận đại ». (Đề thi
Tú tài I, khóa 15-6-1955, Sài-Gòn). Chữ cận đại phải hiểu theo ai đây ? là
thời gian nào đây ?
Sở dĩ có tình trạng lưỡng khả, rắc rối ấy là vì các văn học sử gia dựa
vào những tiêu chuẩn khác nhau trong sự phân kỳ văn học. Ông THANH-
LÃNG tổng kết lại làm bốn :