chí… », đề cao việc học Nam sử, nghiên cứu vốn văn hóa cũ để « từ đó, mà
biên soạn sáng tác thêm ra những sách mới ».
Những công việc do Đông-kinh nghĩa thục đề ra, chúng ta nhận diện
được một phần nào qua hai tờ « Đông Dương tạp chí » và « Nam Phong
tạp chí », nhưng cho đến nay, người ta cũng chưa thực hiện được hết.
Nhiều nhân vật được nổi tiếng sau này cũng nhờ đã luyện ngòi bút ở
Đ.K.N.T. : DƯƠNG BÁ TRẠC, NGUYỄN HỮU TIẾN, NGUYỄN ĐÔN
PHỤC… »
« Về phương diện Văn Xuôi tiếng Việt nói và viết (bằng chữ quốc
ngữ) thì thời kỳ này là thời kỳ quyết định để đào tạo những nhà hùng biện
những cây bút chân tài rồi đây sẽ giữ vai trò cực kỳ quan hệ của văn học
Việt-nam từ năm 1905 đến 1932 để hướng dẫn nền văn hóa Việt-nam tách
rời những tiêu chuẩn do thực dân đặt ra mà Đông Dương tạp chí, nhất là
Nam phong tạp chí đang thực hiện, để trở lại với những tiêu chuẩn của một
nền duy tân đúng với điều kiện của dân tộc Việt ».
Như vậy, khi đề cập « Văn xuôi mới » (V.N.V.H.S.Y.) trong thời kỳ
thành lập mà bắt đầu bằng NGUYỄN VĂN VĨNH với « Đông-Dương tạp
chí » là bỏ mất một nhịp cầu, nhịp chủ yếu, Đông Kinh nghĩa thục, là một
thiếu sót lớn lao. Ông DƯƠNG QUẢNG HÀM là chứng nhân, lẽ nào
không nhận ra biến cố có tiếng vang rộng rãi đó. Nhưng ông lại bỏ qua, có
lẽ vì giới hạn của chế độ chăng mà ông đã « tự ý đục bỏ » ? Xin nhắc lại là
V.N.V.H.S.Y. xuất bản lần đầu năm 1944. Lúc đó Việt-nam đang ở trong
tình trạng một cổ đôi tròng (ách thực dân Pháp và quân phiệt Nhựt), sự «
phối hợp nghệ thuật » cũng kỹ lắm.
Nếu có cùng với giáo sư THANH-LÃNG công nhận « Sinh hoạt văn
học nhờ vào Đông-Dương tạp chí mang một nội dung và một hình thức
mới hẳn », tưởng cũng nên thêm cho được công bằng rằng vì phạm vi sanh
hoạt (văn học) và vì tinh thần hoạt động mà nó vẫn là một bước lùi giả
tưởng so với Đông-Kinh nghĩa thục. Đ.K.N.T. bị khủng bố đúng vào lúc nó
có cơ phát triển thành một phong trào nhân dân có nội dung yêu nước và