nàng và qua một tên đầy tớ biết được rằng nàng được sự hào phóng của ông
M.B... chu cấp. Anh ấy nói tiếp:
“Mình không dừng lại ở đấy đâu. Hôm sau mình trở lại để hỏi cô nàng
tin tức về cậu, nhưng cô nàng đã đột nhiên bỏ đi khi nghe mình nói đến
cậu, thế là mình buộc phải quay về tỉnh mà chẳng có được tia sáng nào về
cậu. Sau đó mình biết được cuộc phiêu lưu của cậu và nỗi hoang mang của
cậu, nhưng mình không muốn đến gặp cậu trước khi biết rõ rằng cậu đã
bình tâm trở lại.”
Tôi trả lời anh bạn trong tiếng thở dài: “Như vậy là cậu đã gặp được
Manông. Ôi, cậu sung sướng hơn mình là kẻ từ đây không bao giờ còn
được gặp lại nàng”.
Anh ấy rầy tôi và tiếng thở dài đó vì nó chứng tỏ tôi còn say mê nàng.
Anh ấy ca ngợi bản chất nhân hậu của tôi, những thiên hướng tốt đẹp của
tôi, khéo đến nỗi sau cuộc viếng thăm đầu tiên đó của anh, tôi thấy nẩy nở
trong tôi ý muốn mạnh mẽ từ bỏ mọi lạc thú ở đời để đi học trở thành tăng
lữ như anh.
Tôi thích thú với ý nghĩ đó đến mức khi ngồi một mình, tôi không suy
tính việc nào khác nữa. Tôi nhớ lại những lời của vị giám mục ở Amien
cũng đã từng khuyên tôi như vậy cùng những lời tiên đoán tốt đẹp của Ngài
về tôi, nếu tôi đi theo con đường đó. Lòng sùng đạo cũng có ảnh hưởng đến
những suy nghĩ đó. Tôi tự nhủ: “Ta sẽ sống một cuộc đời ngoan ngoãn và
thánh thiện, ta sẽ chăm lo học tập và tu hành là hai việc không để cho ta
nghĩ đến những lạc thú nguy hiểm của tình yêu. Ta sẽ xem khinh những thứ
mà con người tầm thường khen ngợi và vì hiểu rõ rằng trái tim ta chỉ ước
muốn những gì mà nó trọng thị, ta chẳng lo gì đến những dục vọng thấp
hèn”.
Từ đó tôi phác họa trước cho mình một cách sống thanh thản và cô
độc. Tôi nghĩ đến một gian nhà biệt lập với một khu rừng nhỏ và con suối
nước ngọt ở một góc vườn, một tủ sách gồm toàn sách chọn lọc, một số ít
bạn bè có đạo đức và tương lai, một cái bàn ăn sạch sẽ nhưng ăn uống