thiếu mà tôi rất yêu. Tôi không đủ can đảm để kể lại chuyện này. Qua nhiều
ngày nhiều đêm, tôi cứ bị ám ảnh, cứ tự giày vò mình, rồi lại nguyện sống
như một kẻ tu hành, tự nhủ là chỉ nghĩ đến sự vật, chứ không nghĩ đến bản
thân hoặc người khác. Từ ấy tôi thường tự hỏi phải chăng mình muốn thoát
li đời sống chỉ là một cách để lãng quên?
Bên nước cô có thể viết thư tự do không? Tôi ngờ lắm và từ nay ta
không nên bàn luận tự do trong thư, tuy chỉ là chuyện triết học song có thể
bị phán đoán sai và phiền đến cô.
Cô có thể biên thư cho tôi nếu muốn, địa chỉ 13 phố Xa-blông.
Người bạn tận tình của cô
Pi-e Qui-ri
Tôi đưa ảnh cô cho Giắc xem. Được chứ? Anh tôi bảo rất đẹp. Và
nỏi thêm: vẻ mặt cương quyết lắm và bướng nữa”.
*
* *
Tháng mười đây rồi. Trái tim Pi-e như muốn vỡ ra vì vui sướng. Ma-
ri đã trở lại Pa-ri. Ma-ri có mặt trong lớp ở Xooc-bon, ở phòng thí nghiệm
của giáo sư Líp-man. Năm nay, năm cuối cùng ở Pháp - cô nghĩ thế - Ma-ri
không ở khu La-tinh nữa. Brô-ni-a nhượng cho em gái một buồng liền vách
với phòng khám bệnh của chị ở số 39 phố Sa-tô-doong. Brô-ni-a chỉ đến đây
ban ngày vì hai anh chị đã về ở khu Vi-let. Ma-ri có thể làm việc yên tĩnh.
Chính trong chỗ ở thiếu ánh sáng và man mác buồn ấy, Pi-e lại tha
thiết nêu câu chuyện tâm tình của mình. Lòng anh cũng rạo rực một niềm tin,
như người vợ tương lai của anh, một niềm tin còn tuyệt đối hơn nữa, không
chút pha trộn. Với Pi-e, khoa học là một mục đích cuối cùng. Đường đời của
anh vì vậy mới lạ lùng làm sao, hầu như không thể tưởng tượng được, vì nó
hòa lẫn ước mơ của trái tim với hoài bão của trí tuệ. Pi-e hướng về Ma-ri do
tình yêu đồng thời còn do sự nghiệp khoa học.
Pi-e lại sẵn sàng hi sinh cái mà người đời gọi là hạnh phúc, cho một
hạnh phúc chỉ mình anh biết. Anh đề nghị với Ma-ri một việc thoạt đầu nghe