Sau những rèm cửa ấy, có một con người mà gia đình ông giáo rất
ghét mà cũng rất sợ, đó là viên hiệu trưởng I-van-nốp, đại diện của chính
phủ Sa hoàng trong trường này.
*
* *
Năm 1872. Còn ai khổ nhục bằng người dân Ba Lan “thuộc Nga” ở
vào hàng ngũ trí thức đa cảm, mà thần kinh đã căng thẳng, và đầu óc cách
mạng đang âm ỉ, họ cay đắng, nhức nhối hơn mọi tầng lớp khác vì ách đô hộ
đè nặng trên đầu.
Đúng một thế kỷ rồi, những vua chúa tàn bạo, lân bang đáng sợ của
một nước Ba Lan suy nhược đã quyết định bóp chết nước này. Đức, Nga, Áo
đã ba lần chia đi cắt lại mảnh đất đau thương đó. Người dân Ba Lan đã đứng
lên chống lại bọn đô hộ. Mỗi lần thất bại, cái thòng lọng buộc vào cổ họ lại
càng thắt chặt. Sau khi cuộc đảo chính oanh liệt năm 1831 không thành, Sa
hoàng Ni-cô-lai I đã ra lệnh trừng trị khốc liệt: hàng loạt người yêu nước bị
tù đày, tịch thu tài sản.
Năm 1863, lại một lần dấy lên, lại một lần bị dìm trong máu. Nghĩa
quân chỉ có đinh ba, lưỡi liềm và gậy gộc chống với súng đạn của Sa hoàng.
Mười tám tháng chiến đấu thất bại, ngoài thành quách Vác-xô-vi dựng lên
năm giá treo cổ, thây bao người yêu nước vật vờ trước gió.
Sau thảm họa đó, bọn thống trị tìm mọi cách khuất phục nước Ba Lan
không cam tâm chịu chết. Từng đoàn tù chính trị tay cùm chân xích bị áp
giải đi Xi-bê-ri, đến những nơi quanh năm phủ tuyết. Hàng loạt người khác
kéo vào Ba Lan để Nga hóa vùng này. Đó là những cảnh sát, giáo sư, viên
chức, mà nhiệm vụ là do thám dân Ba Lan, khủng bố tôn giáo của họ, cấm
đoán sách báo tiến bộ, dần dần xóa bỏ tiếng nói của nước này, tóm lại, tiêu
diệt linh hồn một dân tộc.
Những cuộc đề kháng được tổ chức ngay ở hàng ngũ bên kia. Kinh
nghiệm xương máu cho người Ba Lan thấy rõ ràng lúc đó, thời cơ chưa đến
để giành lại tự do bằng vũ lực. Họ buộc lòng phải đợi và chống lại những
nguy cơ của sự chờ đợi là nhu nhược và chán nản.