Thảo nguyên trống trải hững hờ giải ra trước mắt tôi. Mọi ngọn đồi, triền
đất, hẽm núi, mọi vật chung quanh đều giống nhau đến phát ngấy. Ai là
người đã tạo ra cảnh đơn điệu im lìm, buồn thảm này? Vì sao tôi lại phải
ôm mối tủi nhục bước qua những vùng bàng bạc mênh mông mọc toàn ngải
đắng này? Nhìn đi đâu cũng chỉ thấy toàn một cảnh hoang sơ chết chóc.
Thử hỏi con người cần gì mà phải đến đây? Chả nhẽ trên đời này còn thiếu
nơi sinh sống hay sao? Những ước mơ hồi sáng bây giờ đối với tôi thật quái
gở lố lăng hết chỗ nói.
“Mày đã thấy vùng thảo nguyên ngải hoang tươi tốt, đã thấy đất nước
Anarkhai chưa!” - tôi tự giễu cợt, và trong từng đường gân thớ thịt, tôi cảm
thấy mình bất lực, bơ vơ và chán nản quá chừng.
Trên đầu tôi cao lồng lộng, chung quanh là mặt đất rộng mênh mông,
còn tôi chỉ là một thằng người hết sức bé nhỏ cô đơn, mình mặc chiếc áo cổ
chui, chân đi đôi ủng bạt, đầu đội chiếc mũ lưỡi trai cũ đã bạc phếch, không
biết từ đâu lạc lõng tới đây.
Tôi cứ thế mà đi. Không một con đường, không một lối mòn. Tôi cứ xăm
xăm bước tới. “Cứ đi mãi thế này mình sẽ gặp con đường sắt, - tôi nghĩ, -
bước trên các thanh tà vẹt và đến chỗ tàu tránh sẽ bám vào toa chở hàng.
Mình sẽ trở về với những con người...”
Khi sau lưng bỗng có tiếng vó ngựa và tiếng hí, tôi cũng chẳng buồn
ngoái lại. Đó là Xôrôkin. Chẳng còn ai khác được nữa. Lại sắp bắt đầu
trách móc, dỗ dành tôi đây, nhưng mặc xác, tôi sẽ không quay lại, cũng
chẳng buồn nghĩ ngợi nữa là đằng khác.
- Đứng lại! - Xôrôkin khẽ gọi tôi.
Tôi dừng chân, Xôrôkin cưỡi con ngựa đầm đìa mồ hôi đến gần. Ông
lặng lẽ đưa đôi mắt xanh dưới đôi lông mày bạc phếch chăm chú nhìn tôi,
thò tay vào túi dết lấy ra một tờ bìa đỏ: lệnh của đoàn thanh niên cộng sản
cấp mà hôm mới đến tôi đã trao cho ông một cách kiêu hãnh.