rượu và hai món đồ nhắm. Anh định ngồi gần sát bờ sông, nhưng vì khi đi
đến bến sông thì không biết gã bám đuôi kia đã lủi đi đâu mất, anh đành
chọn chỗ ngồi bên trong - kín đáo mà vẫn nhìn thấy bờ sông. Rượu và đồ
nhắm đã bưng ra, anh bèn vừa ăn vừa để ý phía bờ sông. Quả nhiên, anh
chàng mặc áo xanh nhạt ấy đã đến, vờ như đang nhàn rỗi đi bách bộ…
Triệu Bất Vưu vội cúi nhìn bàn ăn. Anh ta đi đến bên con thuyền khách, hỏi
han gì đó, rồi lên thuyền, bước vào khoang. Chà chà, anh ta dám theo lên
tận thuyền, thế thì tốt, Triệu Bất Vưu tiếp tục ăn.
Chủ quán tuổi ngoài năm mươi, xởi lởi mau mồm mau miệng. Ăn
xong, anh bắt chuyện: “Bác kinh doanh ở đây quanh năm à?”
“Đúng thế! Ông nội, cha tôi rồi đến tôi, đã ba đời mở quán này rồi.”
“Bác có biết một chủ thuyền khách tên là Mai Lợi Cường không?”
“Biết chứ! Ông ta rất hay vào quán tôi, tuổi xấp xỉ tôi. Nhưng ông ta
uống khiếp lắm, tháng chạp năm ngoái say rượu ngã xuống sông chết đuối
rồi.”
“Khoảng ba tháng sau khi ông ấy mất, bác có nhìn thấy Mai thuyền
không?”
“Nghe nói Mai thuyền đã bán cho một nhà buôn tỉnh ngoài, nên đã lâu
không thấy nó, nhưng hình như hôm nọ tôi có nhìn thấy…”
“Là khi nào?”
“… là sau hôm Hàn thực thì phải, mọi người đã đun nấu như thường.
Nó chạy qua trước cửa nhà tôi, cánh buồm vẽ một bông hoa mai to. Nhưng
hôm đó tôi đang đông khách nên cũng không nhìn kỹ nữa.”
Lúc này chủ thuyền khách ngoài kia đang lớn tiếng gọi, nói là sắp nhổ
neo, Triệu Bất Vưu vội trả tiền ăn, cảm ơn chủ quán, rồi chạy ra để lên
thuyền.
Thuyền này cũng có hai dãy sáu khoang nhỏ dành cho khách, chủ
thuyền bố trí Triệu Bất Vưu ngồi một khoang giữa bên phải. Trong khoang
lớn không thấy người mặc áo xanh nhạt kia đâu, chắc anh ta cũng ngồi ở
khoang nhỏ, nhưng khoang đó đóng cửa.
Tạm không bận tâm anh ta, Triệu Bất Vưu bước vào khoang của mình
ở ngay mũi thuyền, anh ngồi tựa cửa sổ nhìn ra ngoài, ngẫm nghĩ. Hiện giờ