số tiến sĩ đỗ cách đây ba năm vẫn đang ngồi chờ bổ nhiệm; cũng tức là dù
thi đỗ cao cũng chưa chắc đã được trao chức vụ thực.
Hai anh em vừa đi ra khỏi Đông thủy môn thì nhìn thấy Vạn Phúc béo
ục ịch chạy đến, thở hồng hộc, nói: “Bẩm Triệu tướng quân, đại nhân nhà
chúng tôi mời ông đến xem xét giúp cho.”
Năm xưa Triệu Bất Vưu tham dự kỳ thi Võ của tôn thất tổ chức, yêu
cầu thí sinh phải cưỡi ngựa giương cung nặng tám đấu, tức hạng nhất,
nhưng Triệu Bất Vưu có thể giương cung nặng một thạch; tâm bia da dê thì
treo trên một cành liễu. Anh đã bắn trúng bia, mũi tên còn xuyên qua bia
rồi xuyên qua thân cây liễu, mũi tên nhô ra ở sau lưng thân cây. Hôm đó
Thiên tử đến thị sát, thấy thế ngài rất mừng và khen ngợi: “Ngày xưa nhà
Hán có Phi tướng quân Lý Quảng có thể bắn tên cắm vào đá, nay thiện xạ
Bất Vưu cũng chẳng kém gì Lý Quảng, khanh chính là Phi tướng quân của
họ Triệu nhà Tống chúng ta!” Ngay lúc đó nhà vua phong cho anh là Ninh
Viễn Tướng quân; tuy chi là chức danh hờ nhưng hoàng tộc và các nhân sĩ
trong triều vẫn tôn xưng Triệu Bất Vưu là “Triệu tướng quân”.
“Cố huynh đang ở đâu?” Triệu Bất Vưu hỏi.
“Bên bờ bắc Biện Hà, quán trà Lão Nhạc ở phía tây cầu vòm.”
“Tôi cũng đang định đến đó. Xảy ra chuyện gì vậy?”
“Nói ra chắc đại nhân không tin: một chiếc thuyền chở trên hai trăm
hành khách bỗng dưng biến mất!”
“Cố huynh đã sơ bộ điều tra xem xét chưa?”
“Xem xét rồi, Cố đại nhân nói một con thuyền lớn như thế đâu có thể
biến mất, trừ phi bị đốt cháy rồi chìm nghỉm. Trước đó tôi đang đứng trên
cầu và nhìn thấy thuyền bị khói trắng bao phủ, là hơi sương chứ không phải
khói do lửa cháy, có mùi thơm tỏa ra ngào ngạt. Sau khi nó biến mất thì
mặt sông cũng không có tàn tích ván gỗ lềnh bềnh, cho nên không phải nó
bị cháy; Cố đại nhân lại tìm mấy tay thủy thủ lặn xuống tìm, cũng không
thây thuyền đâu…”
Triệu Bất Vưu nghe xong chỉ im lặng, Triệu Mặc Nhi thì hơi kinh
ngạc.