Như tôi đã trình bày, những buổi khám phá mà tôi tiến hành với các
khách hàng của mình cho chúng ta thấy được điều gì thực sự có ý nghĩa đối
với họ. Khi tôi và các nhân viên của mình phân tích phản hồi của những
người tham gia sau buổi khám phá, những thông điệp chung xuất hiện.
Chúng tôi đã khám phá ra mật mã khi tìm thấy những thông điệp chung đó.
Những thông điệp đó có sự khác biệt rõ rệt giữa các nền văn hóa, cho
nên mật mã cũng tương tự. Ví dụ, tôi tổ chức những buổi khám phá về phô
mai tại Pháp và Mỹ. Những mật mã chúng tôi tìm ra khác nhau một trời
một vực. Mật mã của người Pháp là SỐNG. Điều này hoàn toàn hợp lý khi
chúng ta xem xét cách người Pháp lựa chọn và cất giữ phô mai. Họ đến cửa
hàng và sờ nắn phô mai cũng như ngửi mùi để biết được số năm tuổi của
chúng. Khi chọn mua được rồi, họ đem phô mai về nhà và đặt vào một
chiếc cloche (một đồ đựng hình chuông với những lỗ nhỏ bao quanh để
không khí lưu thông và tránh côn trùng) và giữ ở mức nhiệt độ phòng.
Ngược lại, mật mã của người Mỹ đối với phô mai là CHẾT. Và điều này
cũng hợp lý nếu xét trong bối cảnh. Người Mỹ “giết” phô mai của họ bằng
sự tiệt trùng (phô mai chưa được tiệt trùng không được phép nhập khẩu vào
đất nước này), lựa chọn những khoanh phô mai đã được đóng gói cũng như
làm khô và nếu muốn có thể đựng trong túi ni lông (giống như túi xác), và
cất giữ miếng phô mai vẫn trong tình trạng bị đóng gói kín mít đó vào nhà
xác hay còn được gọi là tủ lạnh.
Có một phong trào ở châu Âu (do một số quan chức tại Brussel giật dây)
đòi áp đặt luật tiệt trùng vào Liên minh châu Âu. Dựa trên những điều bạn
đã biết về mật mã văn hóa của người Pháp đối với phô mai và những gì
phương pháp tiệt trùng gây ra cho phô mai, chắc hẳn bạn cũng đoán được
người Pháp phản ứng như thế nào đối với phong trào này? Phản ứng của họ
mạnh mẽ tới mức đã diễn ra những cuộc biểu tình trên đường phố. Ý định
ép buộc người Pháp tiệt trùng phô mai của họ rõ ràng là “nghịch mã”.
Quan điểm này cũng đúng với mọi loại thực phẩm. Người Mỹ luôn quan
tâm sát sao đến vấn đề an toàn thực phẩm. Họ có ủy ban quản lý, hạn sử
dụng, và “lực lượng cảnh sát thực phẩm” đa dạng bảo vệ họ khỏi thực