áo choàng lông chim khiến ông nhìn giống một con công khổng lồ. Rồi hình
dáng ấy biến mất khỏi tầm mắt, nhưng có vẻ như vẫn còn đâu đó trong căn
phòng, vì có thứ gì đó giật tất cả mười ba ngăn kéo của cái tủ sơn mài đỏ
hình lục giác ra, đổ tất cả bàn cầu cơ của ông Vodyannoy xuống sàn nhà.
Một giây sau đó, khung cửa sổ bật toang và linh hồn – vì John chắc chắn đó
là một linh hồn – người đàn ông biến mất trong đêm giông bão ngoài kia.
Bà Grace tuyên bố:
– Hắn đi rồi. Tôi là tôi nhẹ cả người khi tống khứ được người như hắn.
Đập tan tành nơi này như vậy đấy. Phá hoại như quỉ à.
John để ngón tay lên miệng suỵt một tiếng, vẫn còn thứ gì đó lảng vảng
trong phòng. Một thứ gì đó ẩn nấp trong bóng tối của khu sảnh những cái
bóng. Một thứ gì đó chỉ vừa mới đến.
Nó nghe như tiếng sấm đì đùng. Hoặc có thể tiếng một gã đàn ông to lớn
ngáy vang sau một bữa trưa thịnh soạn. Một gã đàn ông to lớn với cặp hàm
chắc khỏe và những cái răng sắc nhọn. Một gã đàn ông to lớn mang hình
dáng giống họ nhà mèo hơn con người. Tóc gáy John dựng đứng khi cậu
thình lình nhận ra mô tả đó không giống một gã đàn ông to lớn, mà giống
như đang nói về một con mèo to lớn. Loại mèo có đốm trên lông. Giống như
con cậu đã thấy trong phòng trưng bày chiến tích. Tiếng gầm gừ đến gần
hơn và cậu trông thấy một hình dáng hoàn toàn giống mèo đang chậm rãi
tiến lên từ một góc phòng.
Nuốt nước miếng cái ực, bà Grace hỏi:
– Cái gì vậy? Một con cừu hả?
John thì thầm:
– Bà điên sao, đó rõ ràng không phải một con cừu.
– Vậy nó là gì?
John không trả lời. Nhưng trong đầu, cậu đã nhận ra loại mèo lớn nào họ
sắp sửa đối mặt. Đó là một con báo đốm Nam Mỹ, hay otorongo. Một con to
lớn, đầy cơ bắp săn chắc, dài gần hai mét và có lẽ nặng đến một trăm kí.
Bà Grace hỏi: