năng gì về loại công việc như vậy.
- Dĩ nhiên đó chỉ là một lời bào chữa thôi, - bà MacAndrew nói.
Bà Strickland suy nghĩ đắn đo một lát. Rõ ràng bà ta không thể nào hiểu được tí gì về điều tôi cho
bà biết. Bà đã xếp đặt ngăn nắp phòng khách, bản năng nội trợ đã làm vơi đi sự hoảng hốt của bà.
Căn phòng không còn cái vẻ bị bỏ mặc nữa, như một ngôi nhà có đầy đủ đồ đạc bị bỏ phế lâu mà tôi
đã thấy trong lần đến thăm trước ngay sau tai họa. Nhưng bây giờ, sau khi đã gặp Strickland ở Pari,
thật không tưởng tượng nổi ông ấy sống được trong khung cảnh này. Tôi nghĩ thật khó làm cho họ
hiểu được rằng có một cái gì đó không thích hợp trong con người ông ấy.
- Nhưng nếu anh ấy muốn trở thành một nghệ sĩ, tại sao anh ấy không nói rõ ra? - Sau cùng bà
Strickland hỏi. - Tôi phải nghĩ rằng tôi là người cuối cùng không có cảm tình với cái khát vọng kiểu
đó">
Bà MacAndrew mím chặt môi. Tôi nghĩ rằng không bao giờ bà ta tán thành cái khuynh hướng
của cô em ưu tâm đến những người ham mê các bộ môn nghệ thuật. Bà ta chế giễu các thứ ấy là
“văn nghệ văn gừng”.
Bà Strickland nói tiếp:
- Dù sao, nếu anh ấy có một tài năng nào đó, tôi sẽ là người đầu tiên khuyến khích tài năng ấy
chứ. Tôi sẽ không ngại hy sinh. Tôi thích lấy một anh họa sĩ hơn một anh mua bán cổ phần chứng
khoán ấy chứ. Nếu không vì các con, tôi sẽ không cần gì cả. Tôi có thể sống hạnh phúc trong một
xưởng vẽ tồi tàn ở Chelsea cũng như trong ngôi nhà này vậy.
- Thôi đi Amy, chị không thể kiên nhẫn với em được nữa. - Bà MacAndrew kêu lên. - Em có thể
tin được chuyện vô lý ấy à?
- Nhưng tôi nghĩ đó là sự thật, - tôi dịu dàng nói.
Bà ta nhìn tôi với sự khinh miệt đầy giễu cợt.