mấy dạo, không còn chuyện được ăn nữa, dù chỉ là một miếng thịt bầy
nhầy. Bầm tôi bắt đầu bán những đồ đạc cũ của tía tôi để đổi lấy thực
phẩm. Đầu tiên là quần áo của người ra đi, rồi đến giầy, rồi đến cả những
chiếc khăn vấn tóc, và cuối cùng là chiếc gậy quí giá mà người thường vẫn
dùng để chống bước đi.
Những người khác thì thường nhờ cậy họ hàng trong gia đình để giúp
đỡ, nhưng bầm tôi và tôi lại không may mắn có được những họ hàng hơn
tuổi mình. Tất cả ông bà tôi đã qua đời trước khi tôi đủ lớn khôn để nhớ ra
họ. Hai người anh trai của bầm tôi đã bị giết trong cuộc chiến tranh với
quân Thổ. Họ hàng duy nhất của tía tôi, một bác có tên là Gostaham, là con
trai của ông nội tôi với người vợ kế. Gostaham đã chuyển đến thành phố
Isfahan từ hồi còn trẻ, và chúng tôi nhiều năm nay chẳng nhận được tìn tức
gì của bác.
Đến mùa trời bắt đầu trở lạnh buốt giá, chúng tôi sống bằng những lát
bánh mì mỏng dính và cà rốt muối còn thừa lại từ năm ngoái.
Ngày nào tôi cũng đói, nhưng cũng biết rằng bầm tôi chẳng làm được
gì hơn cả, tôi cố gắng không nói năng gì về cái đau cắn rứt trong dạ dày.
Tôi luôn cảm thấy mệt mỏi, và những việc trước đây dường như thật dễ
dàng đối với tôi, như ra giếng lấy nước thì bây giờ lại vượt quá sức lực của
tôi.
Tài sản cuối cùng giá trị nhất của chúng tôi là tấm thảm màu ngọc
bích. Ngay sau khi tôi kết những múi đan cuối cùng trên diềm thảm thì
Hassan, người buôn lụa đã đến và mang đi, thanh toán nốt cho chúng tôi
phần còn nợ. Ông ấy giật mình nhìn thấy chúng tôi mặc độ chẽn đen, đeo
khăn vấn đầu màu đen, và khi ông hiểu ra lý do vì sao chúng tôi vận đồ
tang, ông liền hỏi bầm tôi xem có thể giúp được việc gì. E sợ rằng chúng
tôi không thể sống qua nổi mùa đông ấy, bầm tôi hỏi ông ấy khi ông trở về
thành Isfahan liệu có thể tìm ra được người họ hàng duy nhất của tôi, có tên
là Gostaham không, để kể cho bác ấy về số phận của chúng tôi.