Chị đã giúp em hồi em còn khó khăn. - Nó nói. - Em sẽ không để chị
bị đói rét ngoài đường đâu.
Thánh Ala rủ lòng thương phù hộ cho em, Malekeh! - Tôi nói. Nó có
mọi lý do để không tin câu chuyện của tôi, nhưng mà dẫu sao nó đã chọn
việc giúp đỡ chúng tôi.
Bầm tôi bảo tôi, cùng ngồi bên nó, cố gắng giúp đỡ nó bán đồ.
Malekeh rao bán hàng với những người qua đường, mời chào họ ngó nhìn
thảm của nó. Nhiều người đàn ông đã dừng lại để ngắm nhìn nó, bởi vì nó
có những đôi môi đẹp như nụ hoa hồng và nụ cười trong như ngọc. Bầm tôi
thì cố làm khách hàng sao nhãng bằng cách mô tả chi tiết những ưu điểm
của các tấm thảm, nhưng giọng lưỡi của bầm đã mất đi vẻ đường mật. Tôi
nghĩ lại cách thức mà bầm đã chèo kéo một nhà buôn lụa để mua cái thảm
của tôi, mặc cả đi mặc cả lại cho đến khi bầm bán được giá. Giờ đây bầm
trông mệt mỏi, và chẳng có ai dừng lại để hỏi han trao đổi giá cả lâu. Tôi
ngồi trên những tấm thảm lúc bầm làm việc, hai tay ôm lấy cằm để bớt đau.
Người duy nhất bán được thứ gì đó vào cái ngày đông lạnh đó là một người
bán chăn, bởi vì đồ của chị ấy đẹp không chê vào đâu được.
Vào cuối buổi chiều, Malekeh vẫn chưa bán được thứ gì, và phần lớn
những khách mua hàng đã về nhà. Nó cuộn những tấm thảm lại, nó và tôi
mỗi người khoác một bó thảm trên lưng. bầm tôi địu những bó đồ nhỏ của
chúng tôi sau lưng và chúng tôi theo Malekeh đi ngang qua chợ, về phía
quảng trường cũ và Thánh đường Thứ Sáu.
Bầm tôi đi lên phía trước bên cạnh Malekeh, người bầm đuỗn đuỗn ra.
bầm chẳng quay lại hay nhìn vào tôi hay hỏi tôi xem thế nào. Cái đau ở
cằm tôi xuyên thấu cả và thân, nhưng tôi cảm thấy đau khổ hơn vì thái độ
hờ hững của bầm.
Lúc chúng tôi đến quảng trường cũ nơi mà tôi đã đi qua rất nhiều lần
trên đường đến gặp Fereydoon, tôi bắt đầu nghĩ về ông ấy và về con phố