Quảng trường đầy người. Bọn trai trẻ xúm quanh chúng tôi, tay nâng
những cái tách nhỏ có chất nước màu đen nóng, miệng liên tục hò hét: “Cà
phê đây! Cà phê nào!" cái thứ chất lỏng mà tôi chưa từng bao giờ được
nếm vị, nhưng ngửi mùi ngon ngon. Hai người nghệ sĩ kia thì đang tung
hứng những quả bóng cho nhau miệng kêu gọi mọi người hãy hào phóng
những đồng xu lẻ cho họ. Những người bán rong có đến chục lần chặn
chúng tôi lại mời chào xem vải này, phấn đánh mắt này, và cả ngà voi, con
thú khổng lồ chỉ có ở Ấn Độ mà theo truyền thuyết nó có trí nhớ đầy uy
lực.
Sau một lát đi bộ, chúng tôi đến được lâu đài của quốc vương. So với
Thánh đường thứ Sáu kia thì lâu đài ở mức khiêm nhường. Lâu đài chỉ cao
vài tầng, được bảo vệ bằng hai cánh cổng gỗ chạm khắc, tám khẩu thần
công bằng đồng, và một dãy lính đứng gác gươm dáo sáng lòa.
Bầm tôi đi đến gần một người lính gác và hỏi xem làm thế nào để gặp
được người có tên là Gostaham, thợ dệt thảm lành nghề.
Bà có việc gì với ông ấy? - Người lính gác ấy nheo mắt hỏi.
Ổng ấy bảo tôi tìm ổng ấy. - Bầm tôi nói. Người lính gác mỉm cười
diễu cợt cái chất giọng quê mùa của bầm tôi.
Ông ấy mà mời bà đến à?
Ổng ấy là người nhà gia đình chồng tôi mà.
Người lính gác trông như thể nghi ngờ lời nói của bầm tôi.
Gostaham là thợ cả trong xưởng dệt hoàng gia của quốc vương, nằm
phía sau lâu đài này. - Người ấy nói. - Tôi sẽ báo cho ông ấy là bà chị đang
ở đây.