Vài ngày sau kì nghỉ, Gostaham lần đầu tới để kiếm tra công việc của
chúng tôi. Khi bác đến, trông sang trọng trong bộ quần chẽn lụa màu chàm
bên ngoài chiếc áo chẽn màu nghệ và chiếc khăn màu tía, tôi nhảy lên từ
phía sau khung cửi để chào bác. Malekeh và Katayoon tiếp đón bác với
lòng biết ơn vì đã là ân nhân của chúng tôi, trong khi mắt vẫn chăm chăm
một cách thận trọng trên khung cửi.
Gostaham nhìn quanh sân hoài nghi. Một đứa trẻ con bẩn thỉu, mũi dãi
lòng thòng tì vào cửa nhà, kinh sợ trước sự hiện diện của Gostaham, trong
khi một đứa khác quần áo rách rưới chạy đến bên bố mẹ. Thời tiết đã trở
nên ấm áp, và trong sân bốc lên mùi hôi chân, tỏa ra từ những đôi giày đặt
ngoài cửa. Bầm tôi cố cầu xin bác Gostaham ngồi xuống uống một chén
trà, nhưng khi mùi hôi phả đến lỗ mũi, biểu hiện rõ ràng là bác cố che giấu
vẻ ghê tởm thoáng qua trên khuôn mặt và bác nói bác không thể ở lại. Bác
không động tới tách trà nhạt đặt bên cạnh, với một đĩa kẹo cũ màu nghệ
kéo theo cả đám ruồi.
Gostaham kiểm tra tấm thảm cả ở hai phía xem từng đường kim mũi
chỉ và độ chỉnh xác của mẫu dệt so với thiết kế của bác và tỏ vẻ hài lòng
với phần hàng mà chúng tôi vừa hoàn thiện. Sau đó bác nói rằng bác có
việc nơi khác và quay gót đi. Tôi chạy theo và cám ơn bác đã đến.
Chúa sẽ ở bên cháu, cháu yêu ạ. - Bác nói, như thể rằng chỉ có thánh
thần mới có thể cứu rỗi tôi.
Tôi thấy bác leo lên con ngựa đợi sẵn. Trước khi cưỡi ngựa đi, bác nói
điều gì đó có ý thán phục.
Lạy thánh Ala! Không có thứ động đất hay bệnh dịch hay nỗi thống
khổ nào có thể cản được cháu tôi làm nên những tấm thảm cuốn hút người
xem đến thế.