Căn phòng có trần dạng vòm, khá thấp, được chiếu sáng vừa bằng những
ngọn đèn lồng đốt ga treo tường vừa bằng đèn dầu tỏa mùi ngấy dai dẳng,
lẫn với mùi kinh khủng hơn của thịt. Đó là một mùi hăng hắc, phả ra từ
giăm bông hỏng và mùi hôi của nhiều loại thức ăn để thiu qua nhiều ngày
trong một cái túi rồi đột ngột mở ra.
Bốn cái bàn gỗ phủ giấy nến xếp nối nhau dưới hai tấm bảng đen lớn.
Mấy cái bàn thu dọn bát đĩa nằm song song với bốn cái bàn lớn, người ta
đặt trên đó những dụng cụ mảnh và sắc, cái nào cái nấy trông rất đáng sợ:
dao cạo mỏng, có khía, có răng, kìm cắt, cưa, và thậm chí cả búa. Trong
một góc có một cái thước dài nửa mét được đặt thăng bằng, trên nền sơn
vàng lốm đốm những vòng tròn đỏ.
Và trong cái bồn rửa duy nhất nhưng rất to chồng chất hàng đống những
dụng cụ nhớp nháp, một đáy nước tù đọng màu boóc đô, trong đó nổi lên
những chất đặc hơn, lằng nhằng nhiều thớ. Những tập giấy ghi rộp lên do
ngấm nước chất thành đống trên cái bàn nhỏ gần lối vào.
Jeremy Matheson đứng đối diện một người đàn ông chừng năm mươi
tuổi, bộ râu và mái tóc màu trắng. Cái tạp dề màu đen của ông ta ánh lên vẻ
ẩm ướt kỳ lạ dưới ánh đèn.
“Đây là lần cuối cùng tôi làm việc vội vã thế đấy nhé,” ông ta báo trước.
“Ông biết là việc quan trọng mà, bác sĩ. Thế nào?” Jeremy hỏi.
Người đàn ông luống tuổi quay về phía hình người được phủ một tấm ga
trên cái bàn ngay cạnh.
“Đứa bé tội nghiệp đã trải qua một khoảnh khắc vô cùng kinh khủng,
ông có thể tin tôi, nó đã bị đánh rất mạnh, hầu như toàn thân nó có vết bầm
máu. Người ta đã bẻ gãy cánh tay trái của nó, vỡ làm ba phần, khuỷu tay
cũng vậy, nhiều xương sườn…”
Ông quay người đối diện với một trong những tấm bảng lớn trên đó ghi
lại nhiều quan sát khác nhau.
“… Chính xác là bốn. Tóm lại, tôi bỏ qua phần còn lại, mọi thứ sẽ được
miêu tả chi tiết trong bản báo cáo mà thư ký đưa cho anh. Điều khiến anh
quan tâm đây: nó chết do bị bóp cổ bằng tay, tôi gần như chắc chắn thế.