việc để chuẩn bị cho tương lai của mình hơn là vì ham thích hay tình yêu
với chính công việc đó.’
Jeremy giơ ngón tay trỏ ra hiệu đồng tình với yêu cầu của Azim.
“Thôi được, tôi sẽ đưa các anh danh sách đó vào thứ Hai hoặc thứ Ba.
Mà này, tôi vừa chợt nghĩ đến, có thể có một mối liên hệ giữa các sự việc
với nhau; chúng tôi,” tức là quỹ này. “đã đưa đơn tố cáo một vụ trộm hồi
tháng Giêng. Và… Ngạc nhiên nhất là không có gì bị đánh cắp cả. Có
người đã phá cửa sau để vào trong các phòng ở và phòng làm việc. Tên bất
nhân đó chắc chắn nghĩ rằng sẽ tìm thấy hàng đống tiền mặt, tôi còn nhớ có
một cái cửa đã bị phá để đột nhập vào phòng đặt két của chúng tôi.”
“Các ông có bị mất nhiều tiền không?” Jeremy hỏi.
“Không, chắc là rốt cuộc hắn thấy cái két vượt quá khả năng của mình,
thậm chí hắn còn không mở nó ra! Hai ổ khóa bị phá hỏng chỉ để có bấy
nhiêu!”
“Trong phòng đó không có gì khác à?” Matheson hỏi thêm.
“Đó là phòng lưu trữ của chúng tôi, nơi lưu trữ hồ sơ về nhân viên và
bọn trẻ.”
“Giờ ông mới nói ra điều đó ư?” Thám tử người Anh nổi khùng.
Azim bắt đầu lo lắng về thái độ của đồng nghiệp.
“Thông tin này có thể quan trọng đấy,” Azim can thiệp trước vẻ mặt tiu
nghỉu của ông giám đốc. “Hồ sơ của đám trẻ ghi lại những thông tin gì?”
Lần này thì Humphreys không khinh khỉnh nữa mà trả lời người Ai Cập
nhỏ bé:
“Cũng những thông tin như tôi đã đưa cho các anh thôi, những điều cần
biết về đứa trẻ, tên, ngày sinh nếu có, nơi có thể gặp bố mẹ chúng, giấy
khám sức khỏe, và giấy theo dõi học tập. Mỗi giáo viên đặc trách một đứa
trẻ chịu trách nhiệm thường xuyên ghi lại trên phiếu theo dõi tiến bộ của
đứa trẻ đó, cùng những nhận xét về thái độ của nó, nếu có.”
“Giấy khám sức khỏe ư, ông chắc chứ?” Azim nhắc lại.