“Vậy thì cô ấy là bằng chứng ngoại phạm của ông vào những đêm xảy ra
tội ác?”
“Tất nhiên! Nếu như tôi cần phải có một bằng chứng ngoại phạm…
Nhưng tôi không nghĩ là chúng ta sẽ đi đến nước này, thám tử ạ.”
Jeremy uống thêm một ngụm rượu bỏng rát.
“Ông cũng phải thừa nhận rằng đó là một bằng chứng ngoại phạm khá
mơ hồ,” anh nói,. “chỉ cần ta ngủ say, thì có lẽ khó mà khẳng định được
người ngủ cùng có mặt suốt đêm hay không.”
“Tuy nhiên, em khẳng định điều đó,” Jezabel nhấn mạnh.
Jeremy tự ngăn mình không được trả lời. Anh đã đi quá xa, vượt khỏi
khuôn khổ nghề nghiệp để thói ghen tuông lẩn vào lập luận, tự anh sẽ làm
lời nói của mình mất trọng lượng, biến mình thành kẻ nực cười. Anh giơ
một bàn tay lên trước ra hiệu xin lỗi.
“Tốt rồi, tôi cần phải hỏi những câu đó, tôi chắc chắn rằng ông sẽ thông
cảm.”
Jezabel uể oải ném đầu mẩu thuốc lá vào cái bể giữa sân. Chồng cô
nghiến răng, tránh một cuộc cãi nhau trước mặt viên thám tử. Ông ta chờ
cơn giận nguôi đi rồi mới nói:
“Tôi nghĩ đã hiểu rằng đến tận hôm qua vẫn không có hướng điều tra xác
đáng nào, mọi việc có tiến triển hơn không?”
“Tôi rất tiếc, nhưng tôi không thể nói chuyện này với ông được, ông
đừng coi đây là chuyện cá nhân. Cứ cho là cuộc điều tra vẫn được tiến
hành.”
Keoraz định trả lời nhưng đột nhiên thay đổi hoàn toàn thái độ. Từ vẻ bí
hiểm và xa cách, ông ta trở nên gần như dịu dàng.
“Kìa? Sao con lại đứng đây?”
Jeremy dõi mắt nhìn theo khi ông ta đứng dậy đi đến bên một đứa bé trai
chừng mười tuổi vừa hiện ra từ sau một trong những cánh cửa bằng gỗ.
Đứa bé cũng có dáng dấp sắc sảo như người cha; nó cầm trên tay một con
gấu bông và tay kia cầm huy hiệu rửa tội.