14
Jeremy Matheson cùng đồng nghiệp Azim Abd el-Dayim rẽ lối đi trên
con phố đi bộ của khu El-Musky. Nơi đây, ta chỉ có thể đi bộ hoặc cưỡi lừa,
mật độ người đi lại và các sạp hàng khiến ta không thể làm khác được.
Dưới những mặt tiền cao cũ nát có ban công trồi ra, các quầy hàng sâu
lòng thoải mái lấn đến tận giữa phố, tạo thành một dãy dài nối tiếp những
bó hoa màu sắc sặc sỡ và những tấm mạng che mặt đượm mùi hương lạ.
Jeremy chui qua một tấm thảm lớn bằng da lạc đà treo cao như một cái
lều, tấm da tỏa mùi chua, ngửi muốn lộn mửa. Một người bán lụa gọi anh
nhưng rồi lùi lại ngay khi thấy Azim đuổi anh ta đi bằng chính ngôn ngữ
của anh ta.
Những khăn quàng lụa đỏ, xanh lá cây, xanh da trời, vàng và những màu
biến tấu từ chúng lần lượt biến mất để mở lối vào một mê cung các sọt đầy
chà là và sung mũm mĩm tỏa mùi ngọt lừ.
Ai cũng nói, cũng hét lên bằng tiếng Ả Rập, đổi tiền lấy thực phẩm, đám
đàn ông đùa cợt và cười phá lên để lộ những cái miệng móm, người ta rình
rập lẫn nhau, thèm muốn lẫn nhau dưới vành mũ fez, mũ tarboosh, khăn đội
đầu, tránh nắng nhờ những mái che bằng da thuộc, vải hay những đại diện
khác đặc trưng cho lối kiến trúc cổ.
“Tại sao lại là một ‘thợ săn’?” Azim hỏi. “Lúc nãy ngài có nói rằng kẻ
giết người là một thợ săn. Cùng lắm thì hắn là một tên thú vật, một thằng
điên đáng bị xử chém, chứ sao lại gọi là ‘thợ săn’?”
“Vì đó chính là những gì hắn đã làm. Khi đi săn ở châu Phi, tôi lượn
nhiều giờ liền ngoài trảng cỏ, rình con mồi từ xa, tiến đến gần nó thật nhẹ