ở phía Bắc. Lúc này, vùng đồng bằng kéo dài đến phía Tây của trấn chỉ có
những nhóm người Duy Ngô Nhĩ du mục sinh sống, những người này
không hề có nghệ thuật hoặc văn hóa riêng.”
“Nếu đã vậy”, Địch Công lại ngắt lời, “tại sao công tử không rời khỏi
huyện này ngay và lên phía Bắc để tiếp tục hành trình?”
Họa sư cười, “Đại nhân, thật không dễ để khiến đại nhân hiểu. Ngài phải
biết rằng, thảo dân là kẻ lười biếng, vốn đã thành tâm tính. Không hiểu sao,
thảo dân lại thấy dễ chịu khi sống ở đây và nghĩ mình có thể sẽ ở lại đây
một thời gian dài để rèn luyện họa pháp. Hơn thế nữa, thảo dân yêu thích
căn nhà này. Thảo dân lại vô cùng chuộng rượu ngon, người bán rượu lại ở
cùng một nhà thì có gì tiện lợi hơn. Người này có một trực giác phi thường
đối với mỹ tửu, kho rượu của gã có thể đem so với những tửu lâu ngon nhất
ở kinh thành. Vậy nên thảo dân đã ở lại đây.”
Địch Công không bình phẩm về những lời bộc bạch này. Ông nói, “Lúc
này, ta hỏi câu thứ hai. Đêm qua, từ canh đầu cho đến canh ba, công tử đã ở
đâu?”
“Ở đây!” Họa sư đáp ngay.
“Có ai làm chứng cho công tử không?”
Ngô Phong buồn bã lắc dầu đáp, “Không, thảo dân không hề biết Đinh lão
Tướng quân sẽ bị sát hại đêm qua!”
Địch Công đến bên cầu thang, gọi chủ quán. Khi khuôn mặt tròn trĩnh xuất
hiện dưới chân thang, ông nói, “Ta chỉ muốn xác minh một chuyện đơn
giản thôi. Ngươi có thấy Ngô công tử ra ngoài đêm qua không?”
Chủ quán gãi đầu, rồi nhăn nhở cười, “Đại gia, xin thứ lỗi, tại hạ không thể
giúp được! Đêm qua ở đây có quá nhiều việc, tại hạ thật sự không thể nói
Ngô công tử có ra ngoài hay không!”