của thỏi đá, quả nhiên khe hở nới rộng ra, dưới những thỏi đá lộ ra một
mảnh tiền đồng đúc hình tròn, với hoa văn cổ quái, rộng khoảng một
mét. Bên trên đồng tiền có con thằn lằn bốn chân nạm vàng, khảm vào
hoa văn đồng tiền. Tư Mã Khôi nhấn tay vào con thằn lằn nạm vàng,
quay nửa vòng ngược chiều kim đồng hồ, vào đúng ổ khóa, rắn bốn chân
và nắp đồng đã kết lại thành một thể, rồi anh dùng hai tay nắm chặt và
nhấc mạnh lên trên. Cửa động ầm ầm chuyển động, mở ra một địa huyệt,
từ bên trong ùa ra luồng khí đen ngòm, đèn nền trong đại điện trở nên
mờ tối theo sự xuất hiện của luồng khí.
Tư Mã Khôi biết rõ sự lợi hại của luồng khí độc hại này nên anh
không dám lại gần quan sát tình hình trong địa huyệt, mà lánh sang một
bên nói với Tiền Bảo Sơn: “Việc ngươi sai ta làm, giờ đã làm xong, còn
hai quả mìn dưới kia thì tính sao đây?”
Tiền Bảo Sơn ung dung đáp lời: “Dù sao cũng đã chịu được từng
ấy thời gian rồi, còn vội gì chứ? Cho dù định mau chóng biến thành ma,
đầu thai sang kiếp khác, thì cũng chẳng cần phải tranh thủ từng giây như
thế.”
Tư Mã Khôi thầm cuống lên, lại hỏi: “Ngươi vốn dĩ không biết
tháo gỡ mìn, cũng không định để bọn ta thoát khỏi núi Dã Nhân đấy hả?”
Tiền Bảo Sơn có niềm tin rất sâu sắc rằng: trên thế giới không một
sức mạnh nào có thể đối kháng được “vận may”, cảm giác để vượt qua
mọi sợ hãi này đã khiến hắn cứ nghĩ mình đang ở Thiên quốc. Hơn nữa,
toàn bộ tiến triển của sự việc vẫn đang nằm trong tầm kiểm soát của hắn,
bí mật trong “thi nhãn” đã gần ngay trước mắt, thì làm gì có chuyện hắn
để mắt đến sinh mạng mấy người này, thế là hắn cười nhạt không đáp.
Tư Mã Khôi thấy mình đoán không sai, mắt tóe lửa, giận dữ nói:
“Vậy thì đừng trách ta không khách sáo, cả đời này ta ghét nhất những
kẻ nói lời rồi nuốt lời, lật lọng trở mặt, và cả những kẻ lừa mình gạt trời,
buôn bán vũ khí, buôn bán thuốc phiện. Tất cả tội ác của ngươi gặp phải
tay ta, có chết mười lần vẫn còn là ít.”