nghe một hồi, rồi bắt cô nàng hứa khi về tuyệt đối không được hé môi kể
với bất kỳ ai.
Hạ Cần thấp giọng đồng ý: “Cậu cứ yên tâm, tớ nhất định không
bao giờ thành kẻ phản bội đâu, nhưng hai người các cậu cứ làm mấy việc
thị phi này, chẳng sớm thì muộn cũng rước họa vào thân. Mấy hôm
trước, tớ nghe bố tớ nói, cục cảnh sát đã quyết định bài trừ tận gốc bang
Hắc Ốc đấy. Nếu các cậu không muốn bị nhốt vào tù thì phải sớm trở về
thành phố mới được.”
Tư Mã Khôi nghe tin ấy, trong lòng cảm thấy hơi khó chịu. Thông
qua sự tiếp xúc trong những ngày ở đây, cậu phát hiện cái gọi là “Bang
Hắc Ốc” thực ra là những con người rất thuần phác, họ chỉ là những
người đẩy xe bán khoai lang, bánh hành dạo, nếu không thì là những kẻ
lưu lạc không nhà không cửa. Tất cả bọn họ đều sống nhờ vào con
đường sắt, chẳng gây ra tội ác tày trời nào cả; nếu quả thực bắt họ phải
rời khỏi túp lều hoang tàn này thì họ phải đi đâu để tìm chốn dung thân?
Trái lại, La Đại Hải chẳng buồn để tâm, cậu ta nói nếu như không
thể sống trong Hắc Ốc thì sẽ dẫn Tư Mã Khôi đi Đông Bắc. Ông già cậu
ta trước đây có gốc rễ sâu trong quân đội đến tận đâu đấy chứ, muốn
quan hệ có quan hệ, muốn đường đi có đường đi, không chừng đợi khi
cậu đủ tuổi còn được sắp xếp vào trong quân đội, việc gì phải cố sống cố
chết bám trụ ở đây mà chịu uất ức.
Hạ Cần nói: “Đông Bắc thì có gì hay cơ chứ, đến mùa đông lạnh
chết đi được, chẳng phải lưỡi của cậu khi nhỏ bị đông cứng nên giờ mới
thế này sao?”
La Đại Hải bĩu môi tỏ ý khinh thường: “Cậu thì hiểu gì? Đồ con
gái tóc dài, óc ngắn!” Đoạn cậu quay sang hỏi Tư Mã Khôi: “Khôi này,
bố cậu sau này cũng đến Quan Ngoại phải không? Cậu bảo cái vùng ấy
như thế nào nhỉ?”
Tuy rằng Tư Mã Khôi mơ hồ cảm thấy cái thằng như mình đây tiền
đồ mờ mịt, số phận khó đoán, nhưng từ trước đến nay đều tự hóa nguy