nghĩ chồn tinh đang từ dưới mộ huyệt chui lên, bất giác sợ đứng tim,
mồm há hốc, phệt đít ngã lăn xuống đất.
Tư Mã Khôi không ngờ chiêu vứt mũ ấy lại có hiệu quả thật, trong
lòng cũng cảm thấy kinh dị, miệng lầm bầm: “Lẽ nào sư tổ hiển linh chỉ
đường cho mình thật?” Cậu kéo Hạ Cần ra phía sau lưng, giơ cao ngọn
đèn dầu với ánh sáng bé bằng hạt đậu soi về phía phát ra tiếng động, thì
nhìn thấy trong đám cỏ hoang bị sương đêm bủa vây, có một người đang
đi đến. Người đó tay xách đèn kéo quân, miệng lẩm bẩm rất khẽ bài
đồng dao mà ngày thường trẻ nhỏ vẫn hát: “Hôm nay thần tài giáng
phàm trần, thiên hạ người người đều nhanh chân, tiền sạch cá độ Triệu
thái gia, tiền bẩn cá cho Thập Bát gia, ngàn núi vạn sông một bông hoa,
tiền sạch tiền bẩn đều là tiền, anh phát tài tôi xin hưởng chút, tôi ăn thịt
chia nước cho anh...”
Giọng hát vừa sai lời vừa sai nhạc, lệch cả nhịp điệu cứ vang lên
càng ngày càng rõ trong đêm tối, mãi cho đến khi người đó đi tới gần,
Tư Mã Khôi mới nhìn rõ, kẻ mới đến chính là Triệu Lão Biệt.
Thì ra Triệu Lão Biệt đến chân cầu La Sư đúng giờ như đã hẹn,
nhưng không thấy bóng dáng của Tư Mã Khôi và La Đại Hải đâu, lại
phát hiện có ánh đèn lay động trong nghĩa địa, chẳng cần hỏi cũng đoán
được chuyện gì đã xảy ra. Thế là lão vội vàng mò xuống tìm. Vừa gặp
hội ba người Tư Mã Khôi, lão ta liền nói: “Đã bảo các cậu giờ Tý đợi mỗ
ở dưới chân cầu La Sư, thế mà dám cả gan tự tiện xông vào khu nghĩa
địa này, lại còn dẫn theo một ả nha đầu nữa. Các cậu muốn bỏ mạng à?
Ngộ nhỡ rơi vào hố sâu trong mộ huyệt, bị bọn hồ ly lôi đi, thì cho dù
các cậu có bản lĩnh tài giỏi thế nào đi nữa cùng đừng mơ trèo lên được!”
Vị cứu tinh mà La Đại Hải đang mong chờ cuối cùng cũng xuất
hiện, cậu ta mừng rỡ ra mặt, nhưng vẫn giả bộ cứng giọng: “Lão Triệu,
ngay từ đầu sao lão chẳng bảo bọn tôi không được vào khu nghĩa địa
này, đến bây giờ thì chớ giở cái giọng Tiểu Gia Cát Lượng lột khố, khai
sáng cho mọi người nữa.”