Thế giới là thiên nhiên cổ. Không phải vật chất, vô hình. Một phần
nhỏ không đáng kể của sự sống, một lớp vỏ ngoài cùng trên bề mặt có
thể nhìn thấy, đấy là vật chất. Phần lớn nhất vô giới hạn của sự sống
bên trong: vô hình và không phải vật chất.
Thiên nhiên cổ là phép mầu, là ý tưởng, là hình ảnh, ảo ảnh. Và
linh hồn câm lặng, bất lực, bất động như thế nào, thì thiên nhiên cổ hoạt
động, sản sinh và tạo dựng như thế ấy.
Mọi phép mầu xuất hiện ra từ đó; tất cả cái gì lộng lẫy đều xuất
hiện ảo ảnh từ đó. Sự biểu hiện đầu tiên của thiên nhiên cổ là tư tưởng.
Tư tưởng, ý nghĩa, tri thức đều là hoạt động có tính chất tạo hóa sống
động nhất của thiên nhiên cổ, là một hoạt động tạo hóa không bao giờ
ngừng và vĩnh viễn. Tư tưởng này kinh Veda gọi là phật tính (buddhi),
người Hi Lạp gọi là biểu tượng (logos), đây là khả năng tri giác (tri
năng) một hoạt động không bao giờ ngưng nghỉ. Linh hồn là MỘT,
thiên nhiên cổ là HAI, tư tưởng là BA.
Tư tưởng vô hình và phi vật chất, bởi một phần đáng kể của sự
sống vô hình và phi vật chất. Và tư tưởng không bị ràng buộc vào bất
cứ cái gì: nó tự do, tổng quát, phổ quát.
Sau BA tiếp đến là Bốn. Bốn là tất cả những gì tự do bị buộc lại,
là tất cả những gì tổng quát, được xác định, là tất cả những gì phổ quát
biến thành cá nhân. Veda gọi Bốn này là ahamkara (tôi tự làm).
Thiên nhiên cổ và tư tưởng không nhận biết về cái TÔI. Cả thiên
nhiên cổ, cả tư tưởng đều tự do, tổng quát và phổ quát, không biết đến
các hạn chế, không biết về hình dạng lẫn sự ràng buộc. Cả thiên nhiên
cổ lẫn tư tưởng đều không có cái TÔI của nó. Cái TÔI không phải là
hiện thực. Nó là phép mầu đúng như thiên nhiên và tư tưởng. Thiên
nhiên và tư tưởng mang tính chất tạo dựng: một cách phi vật chất, vô
hình, nó là phi vật chất và vô hình.
Ahamkara đặt ra giới hạn, biến thành cá nhân, thành sự ràng buộc.
Là những cái quay vào chính nó. Khả năng quay vào trong với chính nó
này Veda gọi là manas. Người ta dịch sai: là cảm giác bên trong. Manas