Tất nhiên, sự lu mờ ngày càng tăng lên của nhận thức trong quá
trình lịch sử đi song song với sự suy giảm nhận thức xuất hiện trong
ngôn ngữ. Nhận thức và ngôn ngữ có quan hệ gắn bó với nhau, cần đề
cập thật đầy đủ về mối quan hệ gắn bó này trong nhận thức của con
người cổ.
Kinh nghiệm trực tiếp về nhận thức của con người cổ chúng ta
không có. Những gì ta biết chỉ được phản ánh từ ngôn ngữ cổ. Ngôn
ngữ cổ cũng giống như nhận thức cổ trí tuệ hơn, sâu sắc hơn và vì vậy
chân thực hơn. Nó không nêu lên các khái niệm sự vật mà diễn tả các kí
hiệu tượng trưng, các hình ảnh cổ. Nó trình bày hiện thực của sự sống
mở; ngôn ngữ siêu nhiên của nó phù hợp với nhận thức siêu nhiên.
Ngôn ngữ cổ phong phú vô hạn như nhận thức cổ: các hình ảnh,
các mối liên hệ, sự đồng dạng, sự khác biệt, cường độ, độ sâu sắc là
những kết cấu dày đặc và sống động, mà ngày nay ngay một thứ ngôn
ngữ thi ca sống động nhất cũng chỉ thể hiện nổi trong những phần rất
nhỏ.
Một điều rất đơn giản ví dụ con người cổ khi diễn đạt đặc tính của
linh hồn bằng từ con bướm, không phải họ nói về sự giống nhau của
linh hồn và loài sâu bọ này, mà trước hết nói về sự thẩm thấu hóa các
sức mạnh thần thánh trong tự nhiên: con bướm không phải một loại sâu
bọ, mà là sự biểu lộ của Thượng Đế, giống như sự xuất hiện chung của
sự sống Thượng Đế trong loài động vật.
Nhưng con bướm không phải là một từ mang tính chất biểu trưng
mà là một chìa khóa mở cánh cổng dẫn đến và phơi bày bản chất
Thượng Đế trong loài bướm, linh hồn Thượng Đế xuất hiện một cách
hiện thực trong hình hài con bướm.
Sự hiện thực hóa này cũng liên hệ đến các sự vật khác rất chặt
chẽ: thanh kiếm là lời phán xử, là tinh thần sống động của Thượng Đế;
kính đeo mắt là ảo ảnh và sự mê hoặc; sự lấp lánh của các ngôi sao
tượng trưng cho hành động chỉ đường từ bóng tối đi ra; cái thang là sự