chúng giảm sút, các tư tưởng một phần bị thu hẹp trở thành các công
thức hoặc các khái niệm.
Hình thức đặc trưng của chúng là epigramma-châm ngôn (văn
chương-tư tưởng Do Thái: Các dụ ngôn, Jezus con của Sira; các nhà
triết học Hi Lạp: Parmenides, Herakleitos, Pythagoras v.v.).
Các châm ngôn này được gìn giữ trong các hình thức bảo vệ luật
lệ, hoặc các lời kinh Ấn Độ chuyên sử dụng các từ ngữ chính và các
câu mang cách thức gợi mở, làm nhớ lại. Đây thuần túy chỉ là chiếc
mặt nạ của sự dạy dỗ gốc. Tinh tâm linh trong sách vở không mang tính
chất tích cực. Con người không viết để thay cho lời nói sống động. Lời
nói nảy sinh hoàn toàn từ hình thức khác hẳn so với viết. Lời nói là
giao tiếp, thông tin, còn viết là tác phẩm (nghiệp).
Gott will nicht, dah ỉch schreibe, aber ich mub - Thượng Đế
không muốn tôi viết, nhưng cần (Kafka).
Còn tantra là một thứ từ sách, kể cả từ trật tự cao nhất, nhưng
thiếu vắng sự tin cậy cá nhân. Sự cách biệt hiện sinh giữa con người và
văn bản quá lớn, không thể truyền bá nổi: bởi vậy những con người tài
giỏi nhất không viết.
Sách làm cô đọng và giữ - ít, nhiều - tính chất tinh thần. Nhưng
sách luôn vắn tắt hóa, và ngày nay lời tuyên bố cội nguồn, chúng ta
cũng chỉ được biết qua sách. Điều đó có nghĩa là không còn lời tuyên
bố, đấy chỉ là kỉ vật và là lời giải thích lời tuyên bố. Lời tuyên bố đã
thu hẹp trở lại ở vòng quay sự sống, không thể bước ra khỏi đời sống
và bởi vậy nó không có quyền lực lên đời sống.
Không thể chờ đợi được bất ki điều gì từ sách, bởi sách thuần túy
chỉ là một nơi luu trữ. Nếu trong đời sống của chúng ta vẫn còn một
điều gì đó lớn lao, ta lấy ra từ sách và đặt lại vào sách, nhưng sự sống
của chúng ta hấp hối, chúng ta không tài nào lấy trực tiếp được sự sống
từ đâu, đành chỉ một cách duy nhất: từ sách.
Quá trình cuối cùng của thời kì tantra là sự giáo phái hóa của
sách, chỉ mang ngần này ý nghĩa: tính chất tinh thần của sách đã bị tan