đấy sống, sự tồn tại này tương ứng với sự tồn tại của tất cả thực thể
sống.
Bởi vậy định nghĩa sau cùng của truyền thống Ấn Độ: tat tvam
aszi - cái này là mi.
85.
Chúng ta là những phần của sự sống-sự tồn tại, nhưng không theo
nghĩa chúng ta là một phần được xác định trong sự sống, mà như trong
mọi thực thể sống chúng ta là toàn bộ sự sống, sự tồn tại có trong hiện
tại. Sự tồn tại không thể chia ra, mà trong mọi thời gian mọi nơi mọi
thực thể và sự vật, sự tồn tại là một cái toàn bộ hợp lí.
Sự sống không thể phá vỡ, không có một nửa sự sống hay sự sống
kép. Cái này ít hơn hoặc nhiều hơn, đấy không phải là sự sống mà là
một thứ có thể chia ra, là thứ có thể là một phần, có từng mức độ, giống
như đời sống hoặc sự tỉnh táo hoặc ý thức, hoặc một cái gì khác. Sự
sống có ở bất kì đâu cũng chỉ như một cái toàn bộ.
86.
Những hệ quả của định lí tương đồng trước tiên bộc lộ trong tôn giáo.
Nhận thức siêu hình học đầy đủ về tương đồng và thông qua nhận thức
này sẽ quyết định sự sống còn hay phi-sự sống của tôn giáo.
Chỗ nào con người và toàn bộ các thực thể sống thừa nhận mối
tương đồng với Thượng Đế trong sự tồn tại-sự sống, ở đó thực chất
không có tôn giáo.
Chỗ nào mối tương đồng với Thượng Đế của con người trong sự
tồn tại mờ mịt, và xây dựng trên nền tảng của phi-tương đồng, ở đó tôn
giáo xuất hiện.
Bởi tôn giáo không là gì khác ngoài sự phi-tương đồng giữa
Thượng Đế và con người, tôn giáo không bao giờ là sự tương đồng,
giữa bất cứ môi trường nào, và là sự phi-tương đồng vô tận.