to lớn đến nỗi ông ta cao hơn hẳn những ngôi nhà ở xung quanh Công viên
Tegnérlunden. Các ông thần là thế đấy các bạn ạ, họ có thể thu mình lại bé
tẹo đến mức chui lọt được vào một cái chai, rồi nháy mắt một cái lại to
phình ra bằng cả cái nhà.
Các bạn không thể tưởng tượng nổi là tôi hoảng sợ đến mức nào đâu.
Người tôi cứ run lẩy bẩy từ đầu đến chân ấy. Rồi ông thần cất tiếng nói với
tôi. Giọng ông ta rền vang chẳng khác nào tiếng sấm, nên tôi nghĩ ngay
rằng cô Huida và chú Olaf thể nào cũng sẽ nghe thấy; thế mà lúc nào họ
cũng nghĩ là tôi nói to kinh khủng.
"Bé con," ông thần bảo tôi, "cậu đã giải thoát ta ra khỏi chốn tù đầy.
Hãy nói xem ta phải trả ơn cậu cách nào đây?"
Nhưng nói chung tôi không muốn được trả ơn chỉ vì đã rút một cái nút
gỗ bé tí teo ra. Ông thần bảo tôi rằng ông ta đến Stock¬holm đêm hôm qua
và rằng ông ta chui vào cái chai để ngủ. Vì các ông thần vẫn biết chẳng có
chỗ nào ngủ tốt hơn ở trong những cái chai cả. Nhưng trong lúc ông ta đang
say sưa đánh giấc, có kẻ nào đó đã nút kín mất đường ra. Nếu không có tôi
cứu thoát, e là ông ấy sẽ phải ở trong đó đến cả nghìn năm, cho đến chừng
nào cái nút gỗ mủn ra mất.
"Chuyện này chắc sẽ khiến Đức Vua tôn quý của ta phật ý lắm đây,"
ông thần lẩm bẩm khẽ như nói thầm.
Đên đây tôi thu hết can đảm và hỏi, "ông thần ơi, ông từ đâu đến thế?"
Ông thần im lặng một lúc. Sau đó ông đáp, "Ta đến từ Xứ sở Xa
Xăm."
Ông ấy nói to đến nỗi âm thanh cứ rền như sấm động mãi trong óc tôi,
và có cái gì đó trong giọng nói của ông khiến tôi vô cùng ao ước được đến