Chechening là em trai thứ hai của vị Chúa tiền nhiệm, một người hội tụ đủ cả đức độ cũng như
anh dũng, phóng khoáng, rộng lượng... được nhiều người kính trọng và nhất là được quân sĩ
yêu mến sẵn sàng gọi ông là “cha”. Với tài thao lược của mình ông đã chỉ huy quân sĩ đánh tan
tác quân Đàng Trong nhiều phen. Quân địch khiếp sợ uy danh của ông và gọi ông là “ánh chớp
Đàng Ngoài”. Uy danh của ông cả trong nước và ngoài chiến trận đã đưa ông đến hiểm họa của
những rặng đá ngầm và vực thẳm của sự đố kỵ và nghi ngờ từ chính anh trai mình. Là người
thông thái, ông hiểu được mối nguy đó nên tìm mọi cách nói với anh mình hết sức khiêm
nhường rằng ông sẽ không bao giờ làm quá một điều gì ngoài chỉ thị của anh, rằng những thắng
lợi trên chiến trường đều do sự chỉ đạo sáng suốt và tài giỏi của anh và ông chỉ là người thừa
lệnh. Ông cũng thề nguyện long trọng rằng sẽ không bao giờ làm một điều gì hại đến anh, rằng
nếu quân sĩ hay thần dân đề nghị ông lên thay vị trí của anh thì ông không chỉ từ chối thẳng
thừng mà còn trừng trị thích đáng những kẻ có tư tưởng sai quấy đó.
Vào thời điểm đó lời thề của ông có vẻ được Chúa chấp nhận, nhưng chỉ
vài năm sau - không rõ là do sự đố kỵ của Chúa có từ trước đây hay là do
ông làm điều gì đó dẫn đến bị nghi ngờ hoặc giả do những suy luận một
cách sai trái (người ta nói đến nhiều nguyên nhân khác nhau) - ông và một
số ít quân sĩ bị triệu về cung khi đang chiến đấu với quân Đàng Trong ở biên
thùy phía Nam. Ông tuân lệnh hồi cung - nơi ông lập tức bị bắt và giam
trong một nhà tù ngay gần phủ Chúa.
Ông bị giam cầm như thế suốt một vài năm mà không bị giết bởi ông
chẳng có lỗi lầm gì đáng để bị hành quyết. Thế nhưng có lẽ định mệnh đã
sắp đặt cho sự ra đi của ông. Vào khoảng năm 1672, một số lượng lớn quân
sĩ, không dưới 40.000 người, ở kinh thành Kẻ Chợ, chiếm đóng mọi ngõ
ngách của khu phủ Chúa, gây ra nỗi lo bạo loạn và huyên náo khắp nơi
khiến dân chúng sợ hãi bỏ thành phố chạy về quê. Bọn lính đến trước phủ
Chúa kêu gào ầm ĩ nhưng không dám xông vào trong bởi một nỗi sợ hết sức
bản năng. Họ không mang theo vũ khí, chỉ hoa múa chân tay và miệng thì
gào thét. Họ cất lên những lời thô tục để trách Chúa bạc đãi binh sĩ, hoang
phí đối với đám cung tần mỹ nữ của mình khiến cho ngân khố cạn kiệt trong
khi dân thường thì cùng kiệt và đói khổ, cứ như Chúa đã mưu tính để đẩy họ
đến chỗ cùng đường bằng những nạn đói và sự thiếu thốn. Họ kể lể công lao
của họ khi phục vụ Chúa và đe dọa sẽ hành động quá khích nếu Chúa không