xong việc và đứng chờ. Chỉ cần cái ngoắc tay của bố là mẹ lại hiểu phải
làm gì.
Nhưng đấy mới chỉ là màn dạo đầu. Bố ngồi uống tách cà phê sữa, ăn
qua loa mấy thứ mẹ nấu mà tôi biết có một bát chè tổ yến để tăng lực, rồi
mới vào phòng mang ra một gói vuông vức, bọc giấy hồng có thắt nơ, nhét
sâu vào túi áo khoác. Lại cái gì nữa đây? Tại sao đã có cả thếp dày phong
bì tiền, lại còn thêm cái gói vuông vức ấy mà tôi biết rõ nó là thứ gì? Tôi
đành áp mặt xuống gối và để cho ý nghĩ bay vu vơ ra phía ngoài cửa sổ, nơi
những ngôi sao cuối cùng chuẩn bị tắt nốt trước khi bình minh lên.
Có tiếng bánh xe lăn lạo xạo ngoài đường, chính xác đến từng tích tắc.
Mẹ chỉnh lại cổ áo cho bố lần nữa, trước khi nói nhỏ: “May mắn nhé!” Bố
cũng đáp nhỏ: “Hy vọng thế”.
Cánh cửa xe sập nhẹ, rất nhẹ, không phải cái cách bố vẫn đóng cửa
mỗi khi lên xe. Chiếc xe xa dần. Tôi nhổm nhanh dậy. Qua cửa sổ, tôi chỉ
thấy hai cái đèn hậu màu đỏ và chúng cũng mất hút ngay sau lối rẽ. Trời
còn mờ tối và lạnh. Chả hiểu có việc gì mà bố phải đi sớm đến vậy.
Vấn đề là bố đi đâu, ở đó bố làm gì? Câu hỏi ấy luôn đi kèm với vẻ
mặt im lặng đầy hồi hộp của mẹ, một chút chua chát bị nén xuống của bố
và nhất là nó lại gắn với những cái phong bì đầy bí ẩn? Tại sao bố phải
chuẩn bị những cái phong bì ấy? Rồi còn cái gói vuông vức bọc giấy hồng
có buộc nơ nữa?
Buổi tối trở về, giống những hôm trước, bố lại buông phịch tấm thân
đồ sộ xuống mặt ghế, chiếc cặp da lép kẹp nhưng cái gói vuông vức thì vẫn
còn nguyên. Mẹ lại làm công việc của mọi khi vào sáng sớm hôm sau. Tôi
lại nằm trong màn ngó ra, bí mật theo dõi. (Không phải hôm nào tôi cũng
dậy vào giờ ấy, nhiều hôm ngủ quên luôn). Có lúc hình như bố muốn bỏ
cuộc. Bằng chứng là ông ôm lấy vai mẹ, hỏi: