- Thôi đi, Tomas, đừng phá hỏng tất cả. Anh muốn em nói sao đây? Em
đã nhìn đăm đắm bầu trời suốt nhiều ngày và nhiều đêm, trong lòng chắc
mẩm anh đang ở trên đó mà nhìn xuống em... Vậy nên không, anh không tự
đặt ra cho mình câu hỏi đó trước khi bước lên máy bay.
- Em định thế nào, chúng ta sẽ là bạn của nhau? Anh sẽ gọi cho em mỗi
khi ghé qua New York? Chúng ta sẽ đi uống với nhau vài ly và ôn lại những
kỷ niệm đẹp, sẽ gắn bó với nhau bởi sự đồng lõa có được do bị cấm đoán?
Em sẽ khoe với anh những bức ảnh của con em, những đứa trẻ không phải
con anh. Anh sẽ nói là chúng giống em lắm, trong lúc cố gắng không đoán
thử chúng thừa hưởng những nét nào ở bố chúng. Trong khi anh vào phòng
tắm, em sẽ nhấc điện thoại lên để gọi cho chồng chưa cưới của em và anh
sẽ vặn cho nước chảy để không phải nghe em nói “Xin chào, anh yêu” với
anh ta? Mà anh ta có biết em đang ở Berlin không?
- Thôi đi! Julia hét lên.
- Em sẽ nói gì với anh ta khi trở lại New York? Tomas hỏi trong lúc quay
lại đứng cạnh cửa sổ.
- Em không biết nữa.
- Em thấy đấy, anh mới là người có lý, em không hề thay đổi.
- Có chứ Tomas, dĩ nhiên là em đã thay đổi, nhưng chỉ cần một dấu hiệu
từ số phận là đủ để dẫn em tới đây, đủ để em nhận ra rằng những tình cảm
của em thì không thay đổi...
Phía dưới, Anthony Walsh đang sải bước qua lại và tra giờ trên đồng hồ
đeo tay. Đã ba lần ông ngẩng đầu nhìn lên cửa sổ phòng con gái, và ngay cả
với khoảng cách bảy tầng nhà thì người ta vẫn có thể nhận ra nỗi sốt ruột
hiển hiện trên gương mặt ông.
- Nhắc cho anh biết bố em mất từ khi nào nhỉ? Tomas hỏi và để tấm rèm
voan buông xuống che kín ô cửa kính.
- Em nói với anh rồi mà, lễ an táng ông vừa diễn ra thứ Bảy tuần trước.
- Vậy thì đừng nói gì thêm nữa. Em có lý, đừng phá hỏng ký ức về đêm
vừa rồi; người ta không thể vừa yêu một người lại vừa dối trá người đó, em
không thể, chúng ta không thể.
- Em đâu có nói dối anh...